Nghiên cứu xây dựng quy trình xác định đột biến và đa hình thái đơn nucleotid trên một số gen liên quan đến ung thư vú và ung thư buồng trứng
Cập nhật vào: Thứ ba - 04/04/2023 11:03
Cỡ chữ
Trong số các bệnh ung thư ở phụ nữ, ung thư vú và ung thư buồng trứng là hai dạng thường gặp nhất, chiếm tỉ lệ số ca mắc mới và tử vong cao trên toàn thế giới. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra nguyên nhân gây ung thư vú và ung thư buồng trứng do đột biến gen áp chế ung thư BRCA1 và BRCA2. Và đột biến gen BRCA1 và BRCA2 là nguyên nhân thường gặp nhất gây ra kiểu di truyền của cả ung thư vú và ung thư buồng trứng. Theo nhiều nghiên cứu, 10-15% ung thư buồng trứng và 5-10% ung thư vú có liên quan đến đột biến gen BRCA1, BRCA2. Bên cạnh BRCA1, BRCA2, các gen như XRCC3 và Rad51 được biết đến là những gen có vai trò quan trọng trong việc duy trì sự ổn định của nhiễm sắc thể và sửa chữa những DNA bị tổn thương thông qua quá trình sửa chữa đứt gãy của chuỗi DNA kép.
Tại Việt Nam chưa có nghiên cứu nào về xác định đột biến và một số đa hình trên gen BRCA1, BRCA2, XRCC3, Rad51 ở bệnh ung thư vú và ung thư buồng trứng. Chính vì, nhóm nghiên cứu của GS.TS. Nguyễn Viết Tiến tại Trường Đại học Y Hà Nội đã thực hiện đề tài: “Nghiên cứu xây dựng quy trình xác định đột biến và đa hình thái đơn nucleotid trên một số gen liên quan đến ung thư vú và ung thư buồng trứng” từ năm 2017 đến năm 2020.
Đề tài nhằm thực hiện hai mục tiêu sau: xác định được các dạng đột biến trên toàn bộ gen BRCA1, BRCA2 ở bệnh nhân ung thư vú, ung thư buồng trứng; và xác định được một số dạng đa hình đơn nucleotid trên gen XRCC3, Rad51 và mối liên quan với nguy cơ mắc ung thư vú và ung thư buồng trứng.
Sau ba năm nghiên cứu, đề tài đã thu được các kết quả nổi bật như sau:
Về kết quả đột biến gen BRCA1 và BRCA2 trong bệnh nhân ung thư vú và ung thư buồng trứng
Kết quả phát hiện đột biến trên gen BRCA1: 9/32 mẫu có đột biến gen BRCA1 chiếm tỉ lệ 28,1%. Trong đó có 3 đột biến vô nghĩa trên exon 11 (Lys339fsTer2, Gln541Ter, Thr922fsTer77), 1đột biến vô nghĩa Tyr1666Ter,) và 1 đột biến sai nghĩa Lys1690Glu) trên exon 17, 1 đột biến vô nghĩa trên exon 20 Arg1751Ter) và 1 đột biến vô nghĩa trên exon 22 Gln1779fsTer14). Đột biến Thr922fsTer77, Tyr1666Ter và Lys1690Glu là 3 đột biến mới chưa được công bố.
Kết quả phát hiện đột biến trên gen BRCA2: 3/32 mẫu có đột biến gen BRCA2 và là 3 đột biến vô nghĩa trên exon 11 (Ser1341Ter, Glu1493ValfsTer10, Ser1818Ter). Đột biến Ser1341Ter là đột biến mới chƣa được công bố.
Về kết quả xác định đa hình đơn nucleotide trên gen Rad51, XRCC3 và mối liên quan với nguy cơ mắc ung thư vú và buồng trứng
- SNP rs861539 không có mối liên quan với nguy cơ ung thư vú và buồng trứng.
+ Các kiểu allele và kiểu gen không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm bệnh nhân ung thư vú, ung thư buồng trứng và nhóm đối chứng.
- SNP rs1799794 không có mối liên quan với nguy cơ ung thư vú nhưng có mối liên quan với nguy cơ ung thư buồng trứng
+ Các kiểu allele và kiểu gen không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm bệnh nhân ung thư vú và nhóm đối chứng.
+ Tỉ lệ phân bố các kiểu gen AA, AG và GG khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm bệnh nhân ung thư buồng trứng và nhóm đối chứng (p=0,022). Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỉ lệ kiểu gen AA và AG (p=0,021, OR=0,675 (khoảng tin cậy 95% [0,483-0,943])), kiểu gen GG và AG (p=0,029, OR=1,509 (khoảng tin cậy 95% [1,042-2,186])) giữa nhóm ung thư buồng trứng và nhóm đối chứng.
- SNP rs1799796 không có mối liên quan với nguy cơ ung thư vú nhưng có mối liên quan với nguy cơ ung thư buồng trứng.
- SNP rs1801320 và SNP rs1801321 có mối liên quan với nguy cơ ung thư vú và buồng trứng.
Trên cơ sở những kết quả của đề tài, nghiên cứu sẽ được áp dụng trong chẩn đoán xác định đột biến gen, tư vấn nguy cơ ung thư vú và buồng trứng cho bệnh nhân để hướng tới liệu pháp điều trị đích hiệu quả hơn.
Có thể tìm đọc báo cáo kết quả nghiên cứu (mã số 18278/2020) tại Cục Thông tin khoa học và công nghệ quốc gia.
N.P.D (NASATI)