Xây dựng mô hình sản xuất và liên kết chuỗi giá trị sản phẩm trong sản xuất bưởi và cam sành theo VietGAP tại một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long
Cập nhật vào: Thứ sáu - 20/12/2019 09:35 Cỡ chữ
Hiện nay nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng trong và ngoài nước về sản phẩm cây ăn quả và rau màu đang hướng tới chất lượng cao và an toàn thực phẩm. Trong bối cảnh nền kinh tế nước ta đang hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, những đòi hỏi của nhà nhập khẩu cần biết rõ thông tin sản phẩm qua truy nguyên nguồn gốc sản phẩm và nơi sản xuất đạt tiêu chuẩn VietGAP được đảm bảo những nguyên tắc về môi trường sản xuất an toàn, không chứa các tác nhân gây bệnh do nhiễm sinh học (vi khuẩn, nấm, virus,...) và hóa chất tồn dư trong sản phẩm (dư lượng thuốc BVTV, hàm lượng nitrat, kim loại nặng) có ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng. Người trồng cây bưởi, cam sành phải lựa chọn loại phân bón, thuốc BVTV, phòng trừ sâu bệnh, xử lý sau thu hoạch, vận chuyển sản phẩm, đạt yêu cầu an toàn thực phẩm và không ngừng cải tiến về hệ thống quản lý các hoạt động sản xuất từ ngoài đồng đến nhà đóng gói, giúp tăng năng suất, đạt chất lượng quả tươi, giảm chi phí sản xuất, tăng thu nhập cho người trực tiếp sản xuất.
Bưởi và cam sành là hai chủng loại cây ăn quả có qui mô sản xuất khá lớn ở hai tỉnh Tiền Giang và Bến Tre so với các tỉnh ở ĐBSCL, đến năm 2016 bưởi và cam sành diện tích là 1267,7 ha với sản lượng 19.154,6 tấn (Sở nông nghiệp và PTNT Bến Tre và Tiền Giang, 2016). Sản xuất bưởi và cam đã và đang góp phần giải quyết công ăn việc làm vào tạo thu nhập cho nhiều hộ nông dân tại hai tỉnh và đem lại nguồn thu cho đất nước thông qua hoạt động bán nội địa và xuất khẩu.
Bên cạnh đó, hiệu quả sản xuất cho mô hình bưởi chưa được nghiên cứu để xác định mức chi phí đầu vào hợp lý nhằm đạt hiệu quả năng suất đầu ra, để giúp người trồng bưởi nâng cao thu nhập, ổn định đời sống. Do đó, Cơ quan chủ quản Viện cây ăn quả miền Nam cùng phối hợp với Chủ nhiệm đề tài Tiến sĩ Lê Quốc Điền cùng triển khai dự án: “Xây dựng mô hình sản xuất và liên kết chuỗi giá trị sản phẩm trong sản xuất bưởi và cam sành theo VietGAP tại một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long” là rất cần thiết, để từ đó hướng hình thành mô hình liên kết các hợp tác xã sản xuất theo một qui trình thống nhất các sản phẩm, quản lý chất lượng an toàn theoVietGAP để dễ dàng xâm nhập vào thị trường khó tính.
Sau thời gian thực hiện nghiên cứu, đề tài đã thu được những kết quả như sau:
Hầu hết nhà vườn chưa quan tâm ghi chép sổ nhật ký (phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, nhật ký thu hoạch và bán sản phẩm); Qui trình trồng chưa thống nhất; kỹ thuật quản lý vườn còn yếu kém; môi trường trồng nhà vệ sinh nhà vườn thực hiện tốt; nguồn nước tưới từ sông đảm bảo sản xuất VietGAP; đầu ra của nông dân phụ thuộc chủ yếu vào thương lái thu gom, ảnh hưởng đến việc quy định giá cả; Nông dân vẫn chưa tiếp cận được nhiều về vệ sinh, an toàn thực phẩm và những yêu cầu về truy nguyên nguồn gốc trong sản xuất theo VietGAP. Bài báo khoa học về kết quả nghiên cứu biện pháp quản lý sâu đục quả bưởi 2 bài báo đăng tạp chí Côn trùng học, Bệnh học.
Hoàn thiện quy trình quản lý tổng hợp sâu đục quả trên bưởi; quy trình áp dụng đơn giản, dễ hiểu, có 100% nông dân trong mô hình áp dụng và phòng trừ sâu đục quả đạt hiệu quả và có trên 80% quả không bị nhiễm sâu đục quả. Đã tập huấn kỹ thuật trồng, chăm sóc, thu hoạch và bảo quản theo VietGAP cho 1103 lượt nông hộ trồng bưởi, cam sành. Kết quả tập huấn đã nâng cao được kiến thức về kỹ thuật thâm canh, thu hoạch và bảo quản theo VietGAP cho nông dân trồng bưởi cam sành. Bốn mô hình sản xuất bưởi và cam sành đã đạt chứng nhận VietGAP: Đào tạo 500 lượt nhà vườn tham gia tập huấn và tiếp nhận các qui kỹ thuật mới được áp dụng vào sản xuất bưởi da xanh, cam sành có hiệu quả cao. Đã có một số cơ sở/DN kinh doanh quả ký hợp đồng tiêu thụ sản phẩm cho các tổ hợp tác: Tổ hợp tác bưởi da xanh Nhơn Thạnh; Tổ hợp tác Cam sành Tân Phú Tây; Tổ hợp tác bưởi Mỹ Đức Tây và THT bưởi, cam sành Mỹ Lương Mô hình liên kết trong sản xuất bưởi và cam sành giúp nông dân nâng cao mức độ am hiểu qui trình sản xuất VietGAP.
Hiệu quả của mô hình bưởi da xanh có thu nhập của nhóm nông dân tham gia trong mô hình liên kết chuỗi giá trị và tiêu thụ tăng lợi nhuận hơn của dự án lợi nhuận tăng 27% hơn mô hình không áp dụng. Sản phẩm hầu hết được doanh nghiệp tiêu thụ trên 80%. Hiệu quả của mô hình cam sành dự án có thu nhập của nhóm nông dân tham gia trong mô hình liên kết chuỗi giá trị và tiêu thụ tăng lợi nhuận hơn của dự án lợi nhuận tăng 39,3% hơn mô hình không áp dụng. Sản phẩm hầu hết được doanh nghiệp tiêu thụ trên 80%.
Có thể tìm đọc báo cáo kết quả nghiên cứu (mã số 15257/2018) tại Cục Thông tin KHCNQG.
Đ.T.V (NASATI)