Chính sách mới trong khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo ở Trung Quốc

Mô hình tăng trưởng của Trung Quốc hiện đang có sự thay đổi với tốc độ tăng trưởng giảm và một nỗ lực để tái cân bằng nền kinh tế từ xuất khẩu và đầu tư hướng tới chi tiêu của khu vực tư nhân. Vai trò của đổi  mới  sáng  tạo  ngày  càng  tăng,  như  được  minh  họa  bởi  thực  tế  là Trung  Quốc  đã  dành  khoảng 2%  GDP  cho  NC&PT ,  thu hẹp khoảng cách với các nước EU28. 

Những  điểm  chính  trong  hệ  thống  KHCN&ĐM  của Trung Quốc

Quản  trị  chính  sách  KHCN&ĐM:  Một  nhóm  đổi  mới  hệ  thống KH&CN  hàng  đầu,  với  sự  tham  gia  của  20  bộ,  cơ  quan  quốc  gia  đã được  thành  lập  năm  2012.  Đánh  giá  giữa  kỳ  Kế  hoạch  Phát  triển KH&CN 2006 - 2020  được thực hiện vào năm 2014  với các phương pháp và tiêu chuẩn đánh giá Liên minh Chiến lược công nghiệp - viện nghiên  cứu  cho  đổi  mới  sáng  tạo  công  nghệ  được  đưa  ra  vào  năm 2012. Việc quản lý các chương trình KH&CN trọng điểm đã được sửa đổi để đơn giản hóa thủ tục nộp hồ sơ; các nhà khoa học nộp hồ sơ cho các dự án do Bộ Khoa học và Công nghệ tài trợ không cần phải đích thân tiến hành các phiên hỏi đáp do hầu hết các quy trình nộp hồ sơ và đánh giá có thể được thực hiện qua Internet, trong khi hệ thống quản lý ngân sách đã được cải thiện bằng cách xây dựng thư viện dự án và hệ thống thông tin chương trình KH&CN.

Cơ  sở  hạ  tầng  CNTT&TT  và  Internet:  Mặc  dù  cơ  sở  hạ  tầng CNTT&TT của Trung Quốc đã phát triển nhanh chóng nhưng chỉ số sử dụng CNTT&TT trên đầu người và chỉ số sẵn sàng chính phủ điện tử vẫn còn rất thấp so với tiêu chuẩn của OECD. Trung Quốc đã đầu tư vào cơ sở hạ tầng KH&CN thông qua Chương trình Phát triển cơ sở và cở sở hạ tầng cho NC&PT từ năm 2005, với kinh phí ước tính khoảng 1,5 tỷ USD (5 tỷ NDT).

Chuyển  giao  và  thương  mại  hóa  công  nghệ:  Năm  2013,  Văn phòng  Lập  pháp  của  Hội  đồng  Nhà  nước  sửa  đổi  Luật  Thúc  đẩy chuyển  giao  thành  tựu  KH&CN.  Số  các  liên  minh  chiến  lược  ngành công nghiệp - viện nghiên cứu cho đổi mới công nghệ tăng từ 4 trong năm 2007 lên 146 năm 2013.

Các cụm và chuyên môn hóa thông minh: Hệ thống đổi mới quốc gia của Trung Quốc đã cho thấy sự bất bình đẳng khu vực. Chính phủ đã sử dụng các khu trình diễn đổi mới sáng tạo như một công cụ chính sách quan trọng để làm mũi nhọn dẫn đầu đổi mới sáng tạo ở những khu vực có khả năng đổi mới tương đối thuận lợi. Đến nay 3 công viên khoa học đã được xây dựng tại Trung Quan Thôn (Zhongguncun) (Bắc Kinh); Hồ Đông (Vũ Hán) và Trạm Giang (Thượng Hải). Các doanh nghiệp nằm trong các công viên này được hưởng chính sách ưu đãi và hỗ  trợ  công  cho  các  hoạt  động  đổi  mới  sáng  tạo  của  họ.  Ngoài  ra, Khung Kế hoạch phát triển và đổi mới vùng  Đồng bằng Châu Giang (2008 - 2020) nhằm làm cho khu vực này trở thành một trung tâm đổi mới  sáng  tạo  trong  khu  vực  châu  Á  -  Thái  Bình  Dương.  Đến năm 2012, Trung Quốc đã có 105 Khu Công nghệ cao với khoảng một nửa các  vườn  ươm  công  nghệ  quốc  gia  và  132  khu  phát  triển  kinh  tế  và công nghệ. Để thúc đẩy sự phát triển của khu vực phía Tây, Chiến lược Mở rộng về phía tây hỗ trợ đầu tư cho cơ sở hạ tầng nghiên cứu, hợp tác nghiên cứu và lưu động nguồn nhân lực giữa khu vực miền Đông và miền Tây.

Toàn  cầu  hóa:  Các  hệ  thống  khoa  học  và  đổi  mới  sáng  tạo  của Trung Quốc có sự liên kết yếu kém với các mạng lưới toàn cầu được thể hiện bằng tỷ trọng đồng tác giả và đồng sáng chế của Trung Quốc rất thấp. Chính phủ đang tìm cách để cải thiện tính mở của hệ thống KHCN&ĐM thông qua tiếp tục hợp tác giữa chính phủ về KH&CN và đa  dạng hóa các phương  thức  mà  các  doanh  nghiệp  và  các  tổ  chức nghiên cứu công của Trung Quốc tương tác với các đối tác nước ngoài. Trong những năm gần đây, Trung Quốc cũng đã tăng cường tham gia vào các dự án hợp tác quốc tế quy mô lớn, như Chương trình Khung EU lần thứ 7, và các cuộc đối thoại song phương hằng năm với các nước đối tác quan trọng như Hoa Kỳ và Đức về hợp tác trong KHCN&ĐM.

NASATI (Theo OECD)