Chính sách mới trong khoa học, công nghệ và đổi mới của Pháp

Nền kinh tế Pháp lớn thứ hai trong khu vực đồng euro và tăng trưởng khiêm tốn trong hững năm gần đây. Xu hướng phi công nghiệp hóa đã thể hiện rõ khả năng cạnh tranh của các ngành công nghiệp  xuất khẩu của Pháp. Trong hoàn cảnh này, việc huy động khoa học, công nghệ và đổi mới để  thúc đẩy  đổi mới dựa trên tăng trưởng được đặt lên hàng đầu của chương trình nghị sự chính sách.
 
 
Các trường đại học và  viện nghiên  cứu công: Tỷ lệ  GERD/GDP của  Pháp  ở  trên  mức  trung  bình  của  OECD. Các  cuộc  cải  cách  giáo dục và nghiên cứu bắt đầu vào giữa những năm 2000 vẫn đang được tiếp tục. Tháng 7/2013, Luật về nhiệm vụ và tổ chức của hệ thống giáo dục và nghiên cứu đã được thông qua, trong đó khuyến khích liên kết hoặc hợp nhất các tổ chức giáo dục và nghiên cứu để đạt đến số lượng tổ chức phù hợp trong nghiên cứu và giảng dạy.

Đổi mới trong doanh nghiệp: Với mức chi của doanh nghiệp cho NC&PT đạt 1,48% GDP trong năm 2012, Pháp chỉ ở trên mức trung bình  của  OECD,  nhưng  thấp  hơn  Đức và các  nước  Bắc  Âu.  Để  thúc đẩy NC&PT và đổi mới, Chính phủ đã duy trì tín dụng thuế NC&PT, đây  là  một  trong  những  tín  dụng  hào  phóng  nhất  thế  giới,  khoảng  6 tỷ USD một năm (5 tỷ EUR). Pháp cũng đã đưa ra một số biện pháp để  tăng  cường  hỗ  trợ  trực  tiếp,  chẳng  hạn  như  thông  qua  34  ngành công nghiệp chủ chốt như đã đề cập ở trên.

Tinh  thần  kinh  doanh  sáng  tạo:  Tăng  cường  sáng  tạo  và  tăng trưởng  khởi  nghiệp  sáng  tạo  là  một  mục  tiêu  nổi  bật  của  chính  sách Pháp.  Các  biện  pháp  gần  đây  bao  gồm:  thành  lập  Ngân  hàng  đầu  tư công (Bpifrance), hỗ trợ đổi mới cho khởi nghiệp và DNVVN; hỗ trợ các  doanh  nghiệp  đổi  mới  trẻ  (JEI)  và  tạo  lập  tín  dụng  thuế  đổi  mới (CII) nhằm tăng cường đầu tư đổi mới của các DNVVN độc lập. Năm 2011, một quỹ với 714 triệu USD (600 triệu EUR) được thành lập hỗ trợ  đổi  ới  giai  đoạn  “hạt  giống”,  đến  năm  2013  đã  thực  hiện  15 khoản  đầu  tư  vào  công  nghệ  kỹ  thuật  số  (45%),  khoa  học  đời  sống (40%) và công nghệ sạch (10%).

Chuyển  giao  và  thương  mại  hóa  công  nghệ:  Để  cải  thiện  đầu  ra cho nghiên cứu công, Luật về nhiệm vụ và tổ chức của hệ thống giáo dục và nghiên cứu đã coi chuyển giao công nghệ là một trong những nhiệm vụ của PRI. Là một phần của PIA, các SATT là những công ty chuyên nghiệp cần thiết cho chuyển giao công nghệ.

Cụm  và  chuyên  môn  hóa  thông  minh:  Từ  năm  2004,  các  “Cụm năng lực cạnh tranh” của Pháp đã tài trợ cho  các dự án NC&PT của các tổ chức công về các chủ đề cụ thể (ví dụ, công nghệ nano và hàng không vũ trụ). Sau đánh giá năm 2012, giai đoạn thứ ba của chính sách này chú trọng nhiều hơn vào giai đoạn “hạ nguồn” (tức là tạo mẫu và thương mại hóa các đổi mới).

Toàn  cầu  hóa:  Tăng  cường  sự  tiếp  xúc  của  các  nhà  nghiên  cứu Pháp với các đồng nghiệp nước ngoài là một mục tiêu chính sách quan trọng. Một số chương trình giúp các nhà nghiên cứu Pháp có được vị trí  tạm  thời  ở  nước  ngoài  và  thu  hút  các  nhà  nghiên  cứu  nước  ngoài hàng đầu đến Pháp. Ví dụ, Chương trình  Chủ tịch xuất sắc chi đến 2,4 triệu USD (2 triệu EUR) cho các nhà nghiên cứu nước ngoài được lựa chọn trong thời gian 18 - 48 tháng ở Pháp. Vì sự tham gia của Pháp trong  Chương  trình  Khung  lần  thứ  7  còn  khiêm  tốn  nên  Chính  phủ đang tích cực lựa chọn những bên tham gia vào Horizon 2020 -chương trình tiếp theo của Chương trình Khung lần thứ 7.

Kỹ năng cho đổi mới: Luật về nhiệm vụ và tổ chức của hệ thống giáo dục và nghiên cứu đã mở rộng quyền tự chủ của các trường đại học, tạo cho họ tự do hơn trong việc thiết kế chương trình giảng dạy.

Pháp có tỷ lệ tương đối cao nghiên cứu sinh về khoa học và kỹ thuật. Nghiên cứu sinh có quy chế mới (hợp đồng tiến sỹ), trong đó bao gồm mức lương cao hơn và khả năng giảng dạy, tư vấn,… Doanh hân sinh viên cũng được khuyến khích: ví dụ, các lớp học dành riêng, tư vấn bởi các doanh nhân có kinh nghiệm, tạo điều kiện tiếp cận nguồn vốn,…
 
P.A.T (NASATI), theo OECD