Quốc hội biểu quyết thông qua Luật Công nghiệp công nghệ số
Cập nhật vào: Chủ nhật - 15/06/2025 13:03
Cỡ chữ
Tiếp tục Kỳ họp thứ 9, sáng 14/6, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan, Quốc hội tiến hành biểu quyết thông qua Luật Công nghiệp công nghệ số. Kết quả biểu quyết cho thấy có 441/445 đại biểu tham gia, chiếm 92,26% tổng số đại biểu biểu quyết tán thành. Luật Công nghiệp công nghệ số có hiệu lực từ ngày 1/1/2026.
Luật Công nghiệp công nghệ số quy định về phát triển công nghiệp công nghệ số, công nghiệp bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, tài sản số, quyền và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. Trước khi biểu quyết, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Lê Quang Huy đã trình bày báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số.
Theo Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Quang Huy, một trong những điểm mới đáng chú ý của Luật Công nghiệp công nghệ số là chính sách thu hút, phát triển nhân tài công nghệ số. Luật sử dụng thuật ngữ "nhân tài công nghệ số" để chỉ những người có trình độ, kinh nghiệm, đóng góp nổi bật trong lĩnh vực công nghệ số, bao gồm cả khu vực nhà nước và tư nhân. Đây là lĩnh vực có tốc độ đổi mới rất cao nên việc phát triển nguồn lực chất lượng là vấn đề then chốt.
Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Quang Huy trình bày báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số
Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật Công nghiệp công nghệ số
Luật Công nghiệp công nghệ số quy định rõ về tiêu chí đánh giá nhân tài, dẫn chiếu theo pháp luật về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo để bảo đảm tính khả thi và minh bạch trong tổ chức thực hiện. Điều này được kỳ vọng sẽ tạo ra cơ sở pháp lý để tuyển chọn, sử dụng và đãi ngộ đúng người, đúng năng lực trong thời đại chuyển đổi số.
Về trí tuệ nhân tạo, Luật Công nghiệp công nghệ số đã được chỉnh lý để tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nhân lực AI trong và ngoài hệ thống cơ quan nhà nước. Cụ thể, tại Điều 18, Luật quy định thúc đẩy hoạt động đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng kỹ năng công nghệ số (bao gồm cả AI) trong hệ thống giáo dục quốc dân. Đồng thời, Luật cũng khuyến khích các doanh nghiệp, cơ quan nhà nước chủ động xây dựng chiến lược phát triển nhân lực phù hợp với yêu cầu của thời đại công nghiệp 4.0.
Không chỉ dừng ở đào tạo, Luật còn xác định AI là lĩnh vực trọng tâm cần ưu tiên nghiên cứu, phát triển và ứng dụng, được thể hiện rõ tại Điều 43. Các nội dung này sẽ là nền tảng để xây dựng chính sách hỗ trợ đào tạo chuyên sâu và nghiên cứu AI bài bản, có định hướng.
Luật Công nghiệp công nghệ số cũng quy định những nguyên tắc chung về xây dựng khung pháp lý cho tài sản số, một lĩnh vực còn rất mới nhưng có tốc độ phát triển cực nhanh và tiềm ẩn nhiều rủi ro pháp lý. Theo đó, Luật xác định tài sản số là một dạng tài sản theo quy định của pháp luật dân sự hiện hành. Tuy nhiên, thay vì ban hành một đạo luật riêng biệt, Luật Công nghiệp công nghệ số tiếp cận theo hướng nguyên tắc chung, đồng thời giao Chính phủ quy định chi tiết các nội dung quản lý tài sản số theo thực tiễn và nhu cầu phát triển. Cụ thể, khoản 1 Điều 49 nêu rõ các nội dung quản lý gồm: tạo lập, phát hành, chuyển giao, xác lập quyền sở hữu tài sản số; quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia hoạt động liên quan; bảo đảm an toàn thông tin, an ninh mạng; phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố… Đặc biệt, Luật Công nghiệp công nghệ số yêu cầu kiểm soát cả hoạt động kinh doanh dịch vụ tài sản số, bao gồm tài sản mã hóa. Cách tiếp cận này sẽ đảm bảo tính linh hoạt, khả thi và phù hợp với thông lệ quốc tế, đồng thời đặt nền móng cho việc quản lý hiệu quả tài sản số trong thời gian tới.
Luật cũng quy định một số chính sách phát triển công nghiệp công nghệ số, trong đó huy động nguồn lực đầu tư cho nghiên cứu, phát triển, thiết kế, chuyển giao công nghệ; từng bước làm chủ công nghệ số; xây dựng hạ tầng công nghiệp công nghệ số dùng chung quy mô vùng, quốc gia nhằm thúc đẩy hoạt động công nghiệp công nghệ số.
Luật Công nghiệp công nghệ số cũng xây dựng cơ chế thử nghiệm có kiểm soát đối với sản phẩm, dịch vụ ứng dụng công nghệ số trong các ngành, lĩnh vực, trong đó có cơ chế loại trừ trách nhiệm đối với cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân trong thử nghiệm. Cùng với đó, có cơ chế ưu đãi về đất đai, tín dụng, thuế và các cơ chế ưu đãi khác trong nghiên cứu, thử nghiệm, phát triển, sản xuất, ứng dụng sản phẩm, dịch vụ công nghệ số. Tiếp đến là phát triển thị trường cho công nghiệp công nghệ số; có cơ chế đặt hàng, ưu tiên đầu tư, thuê, mua sắm sản phẩm, dịch vụ công nghệ số sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước.
Ngoài ra, phát triển dữ liệu số trong hoạt động công nghiệp công nghệ số trở thành tài nguyên, tư liệu sản xuất quan trọng và là nền tảng phục vụ nghiên cứu, phát triển, thúc đẩy công nghiệp công nghệ số, đồng thời, đẩy mạnh phát triển, ứng dụng AI trong các ngành, lĩnh vực và các mặt của đời sống kinh tế - xã hội; đưa trí tuệ nhân tạo trở thành phương thức sản xuất mới; thúc đẩy mạnh mẽ năng lực nội sinh quốc gia, tạo ra những mô hình kinh tế mới với năng suất và giá trị vượt trội. Nhà nước có chính sách ưu đãi cao nhất để thúc đẩy, nghiên cứu, phát triển, triển khai, sử dụng AI.
Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội cũng cho biết Luật Công nghiệp công nghệ số có chính sách ưu đãi vượt trội để phát triển ngành công nghiệp bán dẫn, hình thành hệ sinh thái bán dẫn Việt Nam. Cũng như phát triển công nghiệp công nghệ số bền vững, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, giảm thiểu tác động xấu đến môi trường.
A.H (tổng hợp)