Các phương pháp tính biên độ bán phá giá. kinh nghiệm quốc tế và giải pháp cho Việt Nam
Cập nhật vào: Thứ ba - 18/08/2020 00:01
Cỡ chữ
Khi nghiên cứu về chủ đề bán phá giá, có rất nhiều cách hiểu và lý giải khác nhau. Tuy nhiên, điểm chung của các học giả khi định nghĩa về bán phá giá là đều nói đến “sự phân biệt giá giữa các thị trường khác nhau”.
Trong các cuộc đàm phán Hiến chương Havana và sau đó được quy định tại điều VI của Hiệp định GATT 1947, bán phá giá được định nghĩa là việc “các nhà xuất khẩu bán hàng hóa ra nước ngoài với giá thấp hơn giá tại thị trường trong nước và điều này có thể gây thiệt hại cho ngành công nghiệp ở nước nhập khẩu sản xuất sản phẩm tương tự”. Hiện nay, định nghĩa về bán phá giá được các quốc gia thống nhất tại Hiệp định thực thi điều VI của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại năm 1994 (Hiệp định chống bán phá giá - ADA) của WTO như sau: Một sản phẩm bị coi là bán phá giá (tức là được đưa vào lưu thông thương mại trên thị trường một nước khác với giá thấp hơn giá trị thông thường của sản phẩm đó) nếu như giá xuất khẩu của sản phẩm được xuất từ một nước này sang một nước khác thấp hơn mức giá có thể so sánh được của sản phẩm tương tự được tiêu dùng tại nước xuất khẩu trong điều kiện thương mại thông thường.
Trước hết, để tính toán biên độ bán phá giá cần xác định được giá trị thông thường phù hợp với khái niệm đã nêu ở phần 1.2 kể trên. Theo hiệp định ADA, giá trị thông thường sẽ được tính toán trên cơ sở “giá có thể so sánh được, trong điều kiện thương mại thông thường, của sản phẩm tương tự được đưa vào tiêu dùng tại nước xuất khẩu”. Nói cách khác, đó là giá bán hàng tại thị trường nội địa của nước xuất khẩu.
Sau đó, cần phải xác định được giá xuất khẩu sang nước đang tiến hành điều tra hành vi bán phá giá. Giá xuất khẩu của hàng hóa bị điều tra bán phá giá là giá của hàng hóa đưa vào lưu thông ở nước nhập khẩu. Đây chính là mức giá mà các nhà sản xuất cùng mặt hàng của nước nhập khẩu thường coi là “quá thấp” và do đó, gây thiệt hại cho việc sản xuất của các nhà sản xuất tại nước nhập khẩu.
Theo quy định của WTO, biên độ bán phá giá là khoảng chênh lệch khi đối chiếu giữa hai mức giá trị thông thường và giá xuất khẩu của hàng hóa bị điều tra bán phá giá. Đây được coi là cơ sở về mặt định lượng để trực tiếp xác định có hành vi bán phá giá hay không và nếu có thì mức thuế chống bán phá giá được xác định cụ thể. Tuy nhiên, do câu chữ trong Hiệp định còn nhiều điểm chưa rõ ràng nên các nước trong quá trình thực thi đã đưa ra nhiều biến thể khác nhau. Trong đó, biến thể nhiều nhất được thể hiện trong việc xác định hai thành tố chính của công thức là “giá trị thông thường” (normal value) và “giá xuất khẩu” (export price).
Xác định giá trị thông thường
Trong một số trường hợp, Cơ quan điều tra các nước không chấp nhận giá trị thông thường do các nhà sản xuất bị điều tra đã khai báo. Điển hình trong số này là trường hợp nhà sản xuất sản xuất hàng hóa chủ yếu phục vụ mục đích xuất khẩu (tức là không có hàng hóa tương tự được bán trong nước). Trường hợp điển hình tiếp theo là khi Cơ quan điều tra cho rằng giá bán hàng hóa trong nước không thể coi là giá trị thông thường do có sự can thiệp của Chính phủ (thường áp dụng với các nước bị coi là “nền kinh tế phi thị trường”). Trường hợp không xác định được giá trị thông thường theo số liệu doanh nghiệp khai báo thì giá trị thông thường sẽ là một trong hai loại giá: (i) Giá bán có thể so sánh được của sản phẩm tương tự khi xuất khẩu sang một nước thứ ba trong điều kiện thương mại thông thường; hoặc (ii) Giá tính toán dựa trên chi phí sản xuất của sản phẩm ở nước xuất khẩu cộng thêm một mức hợp lý chi phí bán hàng và lãi.
Giá xuất khẩu
Trên thực tế, mặc dù đã được sử dụng từ khá lâu trong pháp luật của WTO song trong các văn bản của WTO không có một khái niệm mang tính chính thức nào về “giá xuất khẩu”. Điều 2.3 Hiệp định ADA chỉ quy định một cách gián tiếp rằng “Trong trường hợp không có giá xuất khẩu hoặc cơ quan có thẩm quyền liên quan thấy rằng giá xuất khẩu không đáng tin cậy do có dấu hiệu liên kết hay thỏa thuận bù trừ giữa người xuất khẩu và người nhập khẩu hay một bên thứ ba, thì có thể tự tính giá xuất khẩu trên cơ sở của giá mà hàng hóa được bán lại lần đầu tiên cho một người mua độc lập, hoặc không bán lại trong cùng điều kiện như khi nhập khẩu, thì trên cơ sở hợp lý do cơ quan có thẩm quyền đó quyết định”.
Đề tài nghiên cứu này đề xuất phương pháp tính toán biên độ bán phá giá cho cơ quan điều tra Việt Nam trong vụ việc điều tra và áp dụng các biện pháp chống bán phá giá phù hợp với quy định của WTO, phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của Việt Nam trong bối cảnh mới. Kết quả nghiên cứu đề tài góp phần giúp các cơ quan quản lý và hoạch định chính sách của nhà nước trong quá trình điều chỉnh, hoàn thiện pháp luật về chống bán phá giá trong thời gian tới. Đề tài có thể là tài liệu tham khảo cho các đối tượng quan tâm trong các Viện nghiên cứu, trường đại học. Kết quả nghiên cứu đã tổng hợp được các phương pháp tính toán theo quy định WTO, một số nước điều tra trên thế giới và của Việt Nam, từ đó đề xuất được phương pháp tính biên độ bán phá giá cho Cơ quan điều tra Việt Nam trong vụ việc chống bán phá giá.
Bên cạnh đó, quá trình nghiên cứu đề tài cũng góp phần rèn luyện và nâng cao trình độ, kinh nghiệm, kỹ năng nghiên cứu cho các cán bộ tham gia nghiên cứu đề tài. Kết quả nghiên cứu đề tài góp phần đảm bảo tính hiệu quả thực thi của biện pháp chống bán phá giá trong bối cảnh mới nhằm bảo vệ lợi ích kinh tế hợp pháp của ngành sản xuất trong nước khi bị thiệt hại bởi hàng nhập khẩu bán với giá rẻ và cạnh tranh không lành mạnh.
Đề tài đưa ra những nhận định khoa học giúp Bộ Công Thương xây dựng phương pháp tính toán biên độ bán phá giá dựa trên thực tiễn điều tra của một số nước trên thế giới nhằm hoàn thiện phương pháp tính toán biên độ bán phá giá phù hợp với quy định quốc tế và bối cảnh điều kiện kinh tế xã hội của Việt Nam, bảo vệ hàng hóa Việt Nam trước sự cạnh tranh không công bằng của hàng hóa nhập khẩu bán phá giá vào Việt Nam.
Đây là lần đầu tiên Cục Phòng vệ thương mại tiến hành nghiên cứu toàn diện về phương pháp tính toán biên độ trong vụ việc điều tra chống bán phá giá đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam. Do đó, trong nghiên cứu không tránh khỏi sai sót, Cục Phòng vệ thương mại rất mong nhận được các ý kiến đóng góp, bình luận nhằm giúp Cục hoàn thiện nghiên cứu này cũng như nâng cao hiệu quả công tác điều tra các vụ kiện chống bán phá giá trong thời gian tới, góp phần bảo vệ sản xuất trong nước và công ăn việc làm của người lao động.
Có thể tìm đọc báo cáo kết quả nghiên cứu (mã số 15357/2019) tại Cục Thông tin KHCNQG.
Đ.T.V (NASATI)
nghiên cứu, chủ đề, phá giá, lý giải, tuy nhiên, học giả, định nghĩa, phân biệt, thị trường