Hoàn thiện chính sách tài chính nhằm thúc đẩy đầu tư tư nhân cho ứng phó với biến đổi khí hậu ở Việt Nam
Cập nhật vào: Thứ ba - 06/05/2025 13:04
Cỡ chữ
Thế giới đang phải đối mặt với các trường hợp khẩn cấp về biến đổi khí hậu (BĐKH) và mất đa dạng sinh học, đòi hỏi những hành động ngay lập tức trên quy mô toàn cầu. Việt Nam nằm trong nhóm các quốc gia trên thế giới chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ BĐKH. Chính phủ Việt Nam đã nhận thấy được tầm quan trọng của công tác ứng phó với BĐKH thông qua việc ban hành và thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với BĐKH.
Chính phủ Việt Nam đã có những chính sách cụ thể về cơ chế ưu đãi, khuyến khích đối với hoạt động đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao, kinh doanh nông nghiệp theo mô hình liên kết chuỗi giá trị, công nghệ sạch, phát triển thị trường trái phiếu xanh, cơ chế ưu đãi dành cho phát triển năng lượng tái tạo,…Đây là những động thái cho thấy quyết tâm của Chính phủ Việt Nam trong ứng phó với BĐKH, nỗ lực thực hiện chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế, tiến tới đạt được những mục tiêu phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc. Tuy nhiên, hầu hết những chủ trương chính sách này nằm rải rác ở các văn bản quy định chung, mang tính khái quát cao, hướng đến những mục tiêu bao trùm thay vì được cụ thể hoá cho ứng phó với BĐKH, đầu tư tư nhân cho ứng phó với BĐKH. Do vậy, xét về mặt lý luận cũng như thực tiễn, cần có những nghiên cứu làm rõ thực trạng chính sách tài chính thúc đẩy đầu tư tư nhân cho ứng phó với BĐKH tại Việt Nam; từ đó, đề xuất hoàn thiện chính sách nhằm thúc đẩy sự đóng góp của khu vực tư nhân vào nguồn tài chính khí hậu của Việt Nam trong vòng 10 năm tới. Vì thế, nhóm nghiên cứu của TS. Phạm Thị Vân Anh tại Học viện tài chính đã thực hiện đề tài: “Hoàn thiện chính sách tài chính nhằm thúc đẩy đầu tư tư nhân cho ứng phó với biến đổi khí hậu tại Việt Nam” từ năm 2020 đến năm 2021.
Đề tài nhằm thực hiện mục tiêu làm rõ thực trạng chính sách tài chính nhằm thúc đẩy đầu tư tư nhân cho ứng phó với biến đổi khí hậu tại Việt Nam; đánh giá những điểm đã đạt được và những hạn chế còn tồn tại; và đề xuất một số giải pháp hoàn thiện chính sách tài chính nhằm thúc đẩy đầu tư tư nhân cho ứng phó với biến đổi khí hậu trong giai đoạn 2021- 2030, tầm nhìn 2050.
Theo tính toán của UNIPCC, chi phí để giảm thiểu 50% khí carbon vào năm 2050 sẽ chiếm 1% đến 3% GDP. Như vậy, Việt Nam sẽ cần khoảng 30 tỷ USD để tiến hành những thay đổi ứng phó đến năm 2030. Đây thực sự là một thách thức lớn trong bối cảnh đất nước còn nhiều khó khăn và nguồn ngân sách nhà nước có hạn. Song mức chi ngân sách nhà nước hiện tại cho BĐKH của Việt Nam còn khá thấp, chỉ ở mức 0.1% GDP (Bộ Kế hoạch đầu tư, 2015). Nguồn lực tài chính để ứng phó với BĐKH phần lớn được lấy từ các khoản vay hỗ trợ, dự án ODA và những chương trình, nghiên cứu, hỗ trợ công nghệ và quỹ quốc tế.
Những nguồn lực này được sử dụng để phòng ngừa, thích ứng và giải quyết những vấn đề thay đổi khí hậu. Mặt khác, phân bổ ngân sách cho những hành động ứng phó còn không đồng đều. Phần lớn ngân sách được sử dụng để đầu tư vào cơ sở hạ tầng ứng phó với BĐKH. Cụ thể, theo BKHĐT, 88% ngân sách dùng để chi cho những dự án phát triển cơ sở hạ tầng có quy mô lớn như thuỷ lợi và giao thông (chiếm đến 92% chi ngân sách thường xuyên năm 2013). Những hoạt động giảm nhẹ còn chưa được chú ý đến, chỉ ở mức 2% chi ngân sách thường xuyên năm 2012. Đến năm 2013 tăng nhẹ lên mức 3.9%. Điều này cho thấy phân bổ ngân sách cho những hành động ứng phó bền vững và dài hạn còn chưa được chú trọng ở các lĩnh vực và các cấp độ. Mặt khác, những khoản chi ngân sách không chú trọng đến khoa học công nghệ, hỗ trợ kỹ thuật và quản lý cho BĐKH. Chi cho sản xuất tiết kiệm năng lượng và phát thải khí CO2 thấp còn rất hạn chế. Chi ngân sách cho BĐKH và mục đích cụ thể của những dự án BĐKH không rõ ràng, thiếu minh bạch thông tin dẫn đến việc giám sát và đánh giá hiệu quả của những hoạt động giải quyết BĐKH không được thực hiện chặt chẽ, đầy đủ. Việt Nam hiện tại cũng chưa có hệ thống tiêu chí đồng bộ để đánh giá hiệu quả của những dự án BĐKH. Vai trò của khu vực kinh tế tư nhân trong thực hiện các giải pháp giảm nhẹ BĐKH còn chưa được chú trọng do thiếu những văn bản pháp lý cũng như chính sách thực sự làm động lực cho khu vực kinh tế tư nhân sản xuất nông nghiệp thông minh và ứng dụng kỹ thuật sản xuất nông nghiệp để giảm thiểu phát thải.
Trong phạm vi đề tài này, nhóm tác giả đã hoàn thành những nhiệm vụ nghiên cứu sau:
(i) Hệ thống lý thuyết về đầu tư tư nhân cho ứng phó với BĐKH;
(ii) Hệ thống lý thuyết về chính sách tài chính nhằm thúc đẩy đầu tư tư nhân cho ứng phó với BĐKH;
(iii) Làm rõ thực trạng đầu tư tư nhân cho ứng phó với BĐKH;
(iv) Làm rõ thực trạng chính sách tài chính nhằm thúc đẩy đầu tư tư nhân cho ứng phó với BĐKH với 4 chính sách: chính sách ưu đãi thuế, chính sách đầu tư, chính sách tín dụng, chính sách huy động vốn, đặt trọng tâm vào hai lĩnh vực là nông nghiệp bền vững và trái phiếu xanh;
(v) Đánh giá những điểm đạt được và những hạn chế còn tồn tại của chính sách tài chính nhằm thúc đẩy đầu tư tư nhân cho ứng phó với biến đổi khí hậu;
(vi) Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách tài chính thúc đẩy đầu tư tư nhân cho ứng phó với biến đổi khí hậu giai đoạn 2021- 2030, tầm nhìn 2050.
Có thể tìm đọc toàn văn Báo cáo kết quả nghiên cứu (mã số 20650/2021) tại Cục Thông tin, Thống kê.
N.P.D (NASTIS)