Hoàn thiện công nghệ chọn tạo giống rô phi đỏ (Oreochromis spp.) tăng trưởng nhanh
Cập nhật vào: Thứ sáu - 29/12/2023 03:01
Cỡ chữ
Cá rô phi đỏ hiện được nuôi phổ biến tại Việt Nam, tập trung chủ yếu ở Nam Bộ. Tuy nhiên, nghề nuôi cá rô phi đỏ hiện đang gặp khó khăn về chất lượng con giống. Cá rô phi đỏ chọn giống tại Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II có nguồn gốc từ các nhóm cá Ecuador, Đài Loan, Malaysia và Thái Lan. Chương trình chọn giống cá rô phi đỏ tại Viện dựa trên lý thuyết di truyền số lượng đã được chứng minh là cách thức khoa học và có hiệu quả nhằm nâng cao các tính trạng mong muốn trên vật nuôi. Ngoài ra, kết quả của chọn giống còn được tích lũy và duy trì qua từng thế hệ, do đó chất lượng con giống được ổn định và gia tăng theo thời gian. Tính đến thời điểm năm 2017, dòng cá rô phi đỏ chọn giống đầu tiên tại Việt Nam đã được chọn lọc qua 4 thế hệ theo tính trạng tăng trưởng và màu sắc. Cá chọn giống thế hệ đầu tiên khi nuôi trong điều kiện thực tế nông hộ tại Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang cho thấy có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn 24% cá không chọn lọc, có màu sắc đạt yêu cầu (màu đồng nhất, không pha lẫn đốm đen hoặc diện tích đốm đen.
Để hoàn thiện công nghệ chọn giống rô phi đỏ, nhóm nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II do ThS. Đặng Văn Trường dẫn đầu, đã thực hiện đề tài: “Hoàn thiện công nghệ chọn tạo giống rô phi đỏ (Oreochromis spp.) tăng trưởng nhanh” trong thời gian từ năm 2017 đến năm 2019.
Mục tiêu của đề tài là nhằm hoàn thiện và sản xuất được cá giống rô phi đỏ chất lượng cao, có tính trạng tăng trưởng nhanh phục vụ sản xuất.
Sau hai năm nghiên cứu, đề tài đã thu được các kết quả nổi bật như sau:
- Đã hoàn thành công việc chọn lọc cá thế hệ G4 và cho sinh sản gia đình thế hệ G5, với tổng số gia đình là 196 gia đình trong thời gian 29 ngày. Từ 196 gia đình chọn lọc 116 gia đình (100 gia đình chọn lọc và 16 gia đình nhóm đối chứng) đảm bảo tính đa dạng di truyền và giá trị chọn giống đánh dấu nuôi tăng trưởng ở 2 môi trường nước ngọt và lợ mặn, mỗi gia đình đánh dấu 100 cá thể. Đạt yêu cầu thuyết minh đề cương là 100 gia đình thế hệ G5. Đánh dấu 11.056 cá thể và thả nuôi đánh giá tăng trưởng ở hai môi trường nuôi nước ngọt và lợ mặn lần lượt là 4.432 và 3.811 cá thể.
Công việc tái sản xuất giống gốc được thực hiện trong năm 2018 và nuôi tăng trưởng trong năm 2019. Kết quả nuôi tăng trưởng bốn dòng cá đạt cỡ 464,1±92,7 g, tỷ lệ sống trung bình đạt 76,1%. Sau khi thu hoạch số liệu nuôi tăng trưởng, cá tiếp tục được chọn lọc nuôi duy trì mỗi dòng 25 cặp.
- Đã sản xuất và cung cấp 100.000 cá hậu bị trong 3 năm 2017, 2018 và năm 2019 cho các cở sở trên địa bàn các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Tiền Giang và Quảng Nam (Trung tâm chọn giống cá rô phi, Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản I), khối lượng trung bình khi phát tán là 53,9 ± 15,6 g. Tại cơ sở tiếp nhận bằng nguồn kinh phí tự có các cơ sở tiếp nhận tiếp tục nuôi tăng trưởng đàn cá đến cỡ 200 g và theo số liệu ghi nhận tại cơ sở cá thì đạt khối lượng cá hậu bị đạt trung bình là 248,3 ± 57,9 g trong thời gian nuôi trung bình 119 ngày. Số lượng cá hậu bị cung cấp cho cơ sở tiếp nhận cá và nuôi tăng trưởng cá hậu bị đến kích cỡ sinh sản đạt yêu cầu của thuyết mình đề cương đề ra là 100.000 cá hậu bị kích cỡ 200 g.
- Trong năm 2018 và năm 2019, đã triển khai 2 mô hình sản xuất cá bột và nuôi đánh giá chất lượng đàn cá phát tán đạt khối lượng trung bình 6 g trong thời gian nuôi trung bình là 59 ngày tính từ khi thả cá bột. Hệ số chuyển đổi thức ăn là 1,3, tỷ lệ sống trung bình đạt 64,8%. Đạt yêu cầu thuyết minh đề cương đề ra là (Tỷ lệ sống >60%; FCR>1,5; khối lượng >5g).
Cá rô phi đỏ chọn giống của Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II là nguồn vật liệu tốt, góp phần cải thiện chất lượng con giống cho người nuôi so về tốc độ tăng trưởng và màu sắc, mang lại hiệu quả kinh tế cho người nuôi. Kết quả nghiên cứu là một bước tiến trong kỹ thuật chọn giống, giúp tăng nhanh hiệu quả chọn lọc và phát tán đàn cá hậu bị chọn giống, góp phần cho phát triển nghề nuôi tại khu vực
Có thể tìm đọc toàn văn Báo cáo kết quả nghiên cứu (mã số 19248/2021) tại Cục Thông tin khoa học và công nghệ quốc gia.
N.P.D (NASATI)