Nghiên cứu đa dạng các loài thuộc chi Trung quân (Ancistrocladus) ở Việt Nam dựa vào phân tích hóa sinh và di truyền
Cập nhật vào: Thứ hai - 10/08/2020 01:50
Cỡ chữ
Với các mục tiêu đặt ra là phân tích thành phần hóa học và xác định một số hợp chất có giá trị y-dược trong chi Trung quân ở Việt Nam, xác định đa dạng di truyền giữa các loài/quần thể dựa trên các chỉ thị phân tử và phân tích tương quan giữa đa dạng thành phần hóa học với đa dạng di truyền của các loài Trung quân nghiên cứu, từ đó có thể đề xuất biện pháp bảo vệ và sử dụng bền vững chi thực vật này, TS. Lê Quỳnh Liên cùng các cộng sự tại Viện Hóa Sinh Biển đã thực hiện đề tài: “Nghiên cứu đa dạng các loài thuộc chi Trung quân (Ancistrocladus) ở Việt Nam dựa vào phân tích hóa sinh và di truyền” từ năm 2014 đến 2018.
Nhóm nghiên cứu đã thực hiện 03 đợt khảo sát và thu mẫu các loài thực vật thuộc chi Trung quân tại các tỉnh Thừa Thiên - Huế, Gia Lai và Lâm Đồng cùng một số các đợt khảo sát nhỏ kết hợp khác tại các tỉnh Vĩnh Phúc, Kiên Giang… Đề tài đã thu thập được 03 mẫu phục vụ cho nghiên cứu hóa học, 64 mẫu lá mẫu thực vật phục vụ cho nghiên cứu đa dạng sinh học. Các mẫu thực vật được thu không đúng vào đợt ra hoa và quả nên chỉ tập trung thu mẫu cành, lá, thân. Các mẫu thực vật phục vụ cho nghiên cứu hóa học được làm lập hồ sơ mẫu và tiêu bản. Các mẫu phục vụ nghiên cứu sinh học được định loài trước tiên bằng hình thái và tiếp đến là sinh học phân tử. Bên cạnh đó, cấu trúc hóa học của các hợp chất đã phân lập được xác định dựa trên phân tích các phương pháp phổ hiện đại như: phổ cộng hưởng từ hạt nhân một chiều/hai chiều.
Các nhà khoa học cũng phân lập được từ loài A. cochinchinensis sinh trưởng tại Bình Định nhiều hợp chất alkaloid có giá trị với hoạt tính gây độc tế bào và chống ôxy hóa. Trong quá trình tìm kiếm các hợp chất từ loài A. cochinchinensis sinh trưởng tại Vĩnh Phúc, ba hợp chất thuộc nhóm alkaloid là isoquinoline alkaloid cũng được phân lập; trong đó có hợp chất CAC4 là hợp chất mới và đã thể hiện khả năng ức chế sinh trưởng của các dòng tế bào này một cách rõ rệt. Giá trị ức chế IC50 của hợp chất CAC4 lên các dòng tế bào ung thư phổi, ung thư máu và ung thư biểu mô lần lượt là 6.52 ± 1.60, 5.02 ± 1.22, 6.79 ± 2.01 μg/mL. Với giá trị IC50 trong khoảng 5-6 μg/mL tương đương với 12-14 μM, hợp chất CAC4 đã thể hiện khả năng ức chế tế bào ung thư phổi, ung thư máu và ung thư biểu mô tương tự như hoạt tính của hợp chất Dioncoquinones A và B trên tế bào u tủy. Tuy nhiên, do đánh giá hoạt tính trên các dòng tế bào ung thư khác nhau, nên chưa có những so sánh cụ thể về hoạt tính nhóm hợp chất alkaloid từ loài A. cochinchinensis của Việt Nam và các loài khác trên thế giới. Bên cạnh khả năng tiêu diệt tế bào gây bệnh, khả năng không gây độc với các tế bào bình thường của hợp chất CAC4 cũng cần phải được nghiên cứu sâu hơn. Theo các phân tích về đa dạng di truyền phân tử, mẫu nghiên cứu thuộc nhóm I gồm 8 mẫu phân bố ở khu vực miền Bắc và Trung Việt Nam gồm các mẫu tại Bắc Giang (1 mẫu), Vĩnh Phúc (1 mẫu), Quảng Trị (1 mẫu), Huế (5 mẫu) với giá trị bootstrap lên tới trên 90%. Các mẫu thuộc nhóm I này có sự khác biệt so với nhóm II (miền Nam Trung Bộ) và nhóm III (miền Tây Nam Bộ). Như vậy, có thể thấy tiềm năng về mặt dược liệu của các mẫu Trung quân thu được tại khu vực phía Bắc và Trung Việt Nam (phía Bắc dãy Trường Sơn) là cao.
Có thể tìm đọc toàn văn Báo cáo kết quả nghiên cứu của Đề tài (Mã số 15223) tại Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia.
N.P.D (NASATI)