Nghiên cứu tác động của các hoạt động phát triển đến dòng chảy và môi trường sinh thái vùng hạ du sông Mã, đề xuất các giải pháp giảm thiểu các tác động bất lợi và đảm bảo an toàn hạ du
Cập nhật vào: Thứ tư - 18/08/2021 01:29
Cỡ chữ
Trong khoảng thời gian 15 năm từ năm 2000 đến nay, sông Mã là một trong những lưu vực có tốc độ phát triển mạnh mẽ. Ở khu vực thượng nguồn đã và đang xây dựng nhiều công trình khai thác tài nguyên nước trên dòng chính như hồ Cửa Đạt có Whi = 1.070 triệu m3 vận hành năm 2010, hồ Hủa Na có Whi = 391 triệu m3 vận hành năm 2013, hồ Trung Sơn tại huyện Quan Hóa với Whi = 202 triệu m3 và hơn 12 bậc thang thủy điện vừa và nhỏ như Bá Thước 1, Bá Thước 2, Hồi Xuân, Nậm Hóa 1, Tà Cọ, Nậm Công… Ở hạ du phất triển Tp.Thanh Hóa thành đô thị loại I, nhiều KCN lớn dần hình thành như KCN Hoằng Long, Đình Hương - Tây Bắc Ga, KCN Nghi Sơn...
Cùng với sự phát triển về kinh tế xã hội, sự biến động về chế độ thủy văn, thủy lực kéo theo sự gia tăng về thiên tai càng thể hiện rõ. Trong thời kỳ mùa lũ, những năm gần đây nhiều trận lũ lớn liên tiếp xảy ra như các năm 2007, 2013, 2017 gây thiệt hại rất lớn về người và tài sản của nhân dân vùng hạ du sông Mã. Vào mùa khô, qua theo dõi tại một số năm gần đây cho thấy, mực nước trên sông Mã vào mùa khô đã xuống rất thấp so với trung bình nhiều năm. Điển hình như các năm 2009, 2010, 2011, 2013 mực nước trên các sông xuống thấp dưới mức lịch sử.
Trong tương lai, lưu vực sông Mã tiếp tục là khu vực phát triển mạnh mẽ về kinh tế - xã hội và dự báo là khu vực có nhiều biến động về chế độ thủy văn thủy lực và môi trường sinh thái. Vì vậy, đề tài “Nghiên cứu tác động của các hoạt động phát triển đến dòng chảy và môi trường sinh thái vùng hạ du sông Mã, đề xuất các giải pháp giảm thiểu các tác động bất lợi và đảm bảo an toàn hạ du” do nhóm nghiên cứu của PGS.TS. Bùi Nam Sách tại Viện Quy hoạch Thủy lợi triển khai từ năm 2015 đến năm 2019, là rất cần thiết.
Đề tài nhằm thực hiện các mục tiêu sau: Xác định nguyên nhân gây biến đổi chế độ thủy văn, thủy lực hạ du sông Mã; đánh giá tác động của sự biến đổi chế độ thủy văn, thủy lực đến khai thác sử dụng nguồn nước, môi trường sinh thái, kinh tế xã hội và đảm bảo an toàn hạ du sông Mã; đề xuất được các giải pháp giảm thiểu tác động bất lợi và quản lý, sử dụng nước hợp lý cho vùng hạ du sông Mã; ứng dụng được công nghệ WebGIS xây dựng bộ dữ liệu của đề tài phục vụ công tác quản lý.
Một số kết quả nổi bật của nghiên cứu:
- Thiết lập và ứng dụng Mô hình toán: Thiết lập và ứng 4 mô hình toán gồm mô hình mưa - dòng chảy (Nam), mô hình cân bằng nước (MIKE BASIN), mô hình thủy lực (MIKE 11), và mô hình sinh thái (RHYHABSIM). Đây là các công cụ hiện đại, đã được mô phỏng và hiệu chỉnh theo các năm thực tế đủ độ tin cậy để tính toán các kịch bản. Kết quả tính toán cân bằng nước, mực nước mùa lũ, mùa kiệt, xâm nhập mặn với các kịch bản về sử dụng nước và sự tham gia các hồ chứa thượng nguồn là cơ sở để nhóm nghiên cứu đánh giá và nhận diện được tác động của các hoạt động phát triển đến chế độ thủy lực, sinh thái hạ du.
- Nhận diện và định lượng được các nhân tố ảnh hưởng đến chế độ thủy lực mùa kiệt, mùa lũ, số liệu thiếu hụt nguồn nước theo các kịch bản. Kết quả cho thấy sự phát triển xã hội về sự gia tăng về nhu cầu dùng nước, khai thác cát và xây dựng các hồ chứa thượng nguồn là các nguyên nhân chính ảnh hưởng đến chế độ thủy lực hạ du. Các nhân tố về tự nhiên như nhiệt độ, mưa và thảm phủ thực vật không có ảnh hưởng nhiều.
- Nghiên cứu lựa chọn và xác định 5 loài cá để xây dựng khung chỉ thị sinh thái gồm Cá Chép, Cá Ngạnh, Cá Đối Đất, cá Bống Mọi và cá Bống Cát Tối. Xác định dòng chảy sinh thái tối ưu và dòng chảy tối thiểu cho các loài Cá chỉ thị.
- Đề xuất các giải pháp công trình và phi công trình. Xây dựng khung chỉ thị sinh thái nhằm quản lý và khai thác sử dụng nguồn nước bền vững lưu vực sông Mã.
Kết quả nghiên cứu giúp cho việc khai thác, sử dụng nước dọc hai bên bờ sông Mã được thuận lợi. Việc xây dựng khu chỉ thị sinh thái và dòng chảy tối thiểu trên sông Mã sẽ giúp cho môi trường, sinh thái vùng hạ du được bảo vệ, tạo sinh kế lâu dài cho nhiều hộ dân sinh sống trên sông.
Có thể tìm đọc báo cáo kết quả nghiên cứu (mã số 16269/2019) tại Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia.
N.P.D (NASATI)