Nghiên cứu các giải pháp nâng cao năng lực bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cộng đồng vùng biên giới Tây Nguyên và tạo sản phẩm hàng hóa từ nguồn dược liệu bản địa
Cập nhật vào: Chủ nhật - 08/05/2022 14:00
Cỡ chữ
Một trong những thách thức lớn của y tế Việt Nam là sự khác biệt về tình trạng sức khỏe và chất lượng công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân giữa các vùng, miền trong nước, giữa các nhóm thu nhập. Sự thay đổi mô hình bệnh tật với nguy cơ gia tăng các bệnh không lây nhiễm và tai nạn thương tích, trong khi một số bệnh truyền nhiễm vẫn có nguy cơ phát triển, đặc biệt là những dịch bệnh nguy hiểm, tái nguy hiểm và dịch bệnh mới trong bối cảnh hội nhập và biến đổi khí hậu. Trong khi đó, các nguồn lực của y tế cơ sở vẫn còn hạn chế, đặc biệt là ở khu vực biên giới, vùng sâu, vùng xa và vùng khó khăn.
Bác sĩ, cán bộ y tế dự phòng ở tuyến xã còn thiếu, trình độ chuyên môn còn nhiều bất cập với sự thay đổi mô hình bệnh tật, hệ thống y tế thôn bản chưa hoàn chỉnh... Hệ quả là, với khối lượng công việc ngày càng tăng, các hoạt động và chương trình y tế quốc gia được triển khai nhiều nhưng hiệu quả chưa đồng đều, còn có hiện tượng quá tải công việc ở tuyến cơ sở. Bên cạnh đó, nguy cơ tổn thất các nguồn lực của y tế cơ sở khi xảy ra thiên tai, thảm họa là rất lớn.
Do đó, đề tài được Cơ quan chủ trì Trường Đại học Y tế công cộng cùng phối hợp với Chủ nhiệm đề tài GS.TS. Phạm Gia Khánh tiến hành “Nghiên cứu các giải pháp nâng cao năng lực bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cộng đồng vùng biên giới Tây Nguyên và tạo sản phẩm hàng hóa từ nguồn dược liệu bản địa” với mục tiêu: Xác định mô hình bệnh tật và giải pháp tăng cường năng lực bảo vệ chăm sóc sức khỏe cộng đồng vùng biên giới Tây Nguyên do tác động của di, biến động dân số và hiện tượng thời tiết khí hậu cực đoan; Xây dựng quy trình chuyển giao công nghệ tạo sản phẩm hàng hóa từ nguồn dược liệu bản địa, góp phần xóa đói giảm nghèo đảm bảo an ninh biên giới.
Tây Nguyên là khu vực có diện tích đất canh tác nông nghiệp lớn, có điều kiện khí hậu và thổ những thuận lợi cho phát triển các cây công nghiệp cũng như các loại cây dược liệu. Diện tích trồng dược liệu cũng như nguồn dược liệu bản địa là rất phong phú. Trong khuôn khổ đề tài này, dự định bước đầu hiện đại hóa một số bài thuốc sử dụng nguồn dược liệu phong phú này này, chuyển dạng bào chế thành dạng bán thành phẩm là cao khô, từ đó có thể phát triển thành các dạng viên nén, viên nang. Thực sự đi sâu giải quyết các nhiệm vụ chăm sóc bảo vệ sức khỏe nhân dân. Thực hiện nội dung này, cũng phần nào nâng cao thương hiệu của bài thuốc cổ truyền Tây Nguyên, sử dụng các dược liệu hiện có của Tây Nguyên để phục vụ đồng bào Tây Nguyên và cả nước.
Sau thời gian nghiên cứu, đề tài đã thu được những kết quả sau:
Khu vực biên giới Tây Nguyên là khu vực có sự biến động dân số và cơ cấu dân số không thuần nhất theo dân tộc và địa bàn cư trú. Tỷ suất nhập cư của toàn vùng là 18,8‰. Thành phần di chuyển đông nhất là người kinh và một số dân tộc ít người đến từ các tỉnh phía Bắc (Tày, Nùng, Thái, Dao, H’mông...).
Mô hình bệnh tật bệnh nhân điều trị nội trú tại các bệnh viện huyện khu vực biên giới Tây Nguyên là mô hình bệnh tật của các nước đang phát triển. Bệnh nhiễm trùng là bệnh phổ biến và chiếm tỷ lệ cao. Các bệnh nhiễm khuẩn trong chương trình TCMR giảm rõ rệt. Các bệnh không nhiễm khuẩn như khối u, bệnh cơ quan tạo máu, bệnh nội tiết chuyển hoá ngày càng tăng.
Tỷ lệ người di cư mắc bệnh trong vòng 4 tuần cao hơn 42% so với người không di cư. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Sau di cư, sức khoẻ của phụ nữ, của nhóm tuổi 44-59 có biểu hiện xấu đi.
Bệnh não mô cầu có liên quan nhiều đến di cư trong nước. Tỷ lệ mắc bệnh não mô cầu chủ yếu tập trung ở nhóm dân di cư (57,14%).
Bệnh sốt rét có liên quan nhiều đến giao lưu biên giới. Tỷ lệ có KSTSR ở người có giao lưu biên giới (2,21%) cao hơn nhiều ở nhóm không giao lưu biên giới (1,10%). Trong đó, tỷ lệ nhiễm KSTSR ở nhóm người đi theo đường tiểu ngạch (67,98%) cao hơn nhiều nhóm đi qua cửa khẩu (33,02%).
Có thể tìm đọc báo cáo kết quả nghiên cứu (mã số 17254/2019) tại Cục Thông tin khoa học và công nghệ quốc gia.
Đ.T.V (NASATI)