Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về việc thành lập các cơ sở ươm tạo, cơ sở kỹ thuật, khu làm việc chung theo quy định của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa
Cập nhật vào: Thứ hai - 05/02/2024 00:01
Cỡ chữ
Hiện nay cả nước có 47 cơ sở ươm tạo, trong đó chỉ số ít các cơ sở ươm tạo do Nhà nước thành lập còn phần lớn là các cơ sở ươm tạo do tư nhân thành lập theo mô hình các vườn ươm, cơ sở kỹ thuật và khu làm việc chung. Các vườn ươm này đang hoạt động đa chức năng, nhiệm vụ và vai trò đan xen cũng như đều có các chức năng tương tự nhau, cho nên trong thời gian vừa qua hoạt động của các cơ sở trên chưa thực sự hiệu quả. Sự yếu kém bộc lộ lớn nhất của các cơ sở trên đó là năng lực (nguồn lực), các hoạt hoạt động theo chức năng và vai trò tham gia từ phía nhà nước là chưa tốt.
Một thực tế khác nữa đó là trong thời gian vừa qua, các vườn ươm doanh nghiệp sau khi hết giai đoạn hỗ trợ từ Nhà nước hoặc các tổ chức quốc tế đều hoạt động rất khó khăn. Đặc biệt trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, mô hình và cách thức hoạt động của các vườn ươm trên thế giới đã có nhiều sự thay đổi. Vì vậy, cần có một nghiên cứu đánh giá lại thực trạng các chính sách của Nhà nước và hoạt động của các cơ sở ươm tạo hiện nay, nghiên cứu các mô hình hoạt động hiệu quả và bền vững, tiếp thu kinh nghiệm của các mô hình vườn ươm mới trong xu hướng cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay và phát triển đa dạng các mô hình ươm tạo theo kinh nghiệm quốc tế (khuyến khích các mô hình vườn ươm từ khu vực kinh tế tư nhân).
Nhằm làm rõ những vấn đề chung về việc thành lập cơ sở ươm tạo, cơ sở kỹ thuật, khu làm việc chung: khái niệm, vai trò, đặc điểm, những yếu tố ảnh hưởng, kinh nghiệm một số nước; Xây dựng được bộ tiêu chí hướng dẫn thành lập các cơ sở ươm tạo, cơ sở kỹ thuật, khu dùng chung; Đánh giá được những kết quả, hạn chế và nguyên nhân của các hạn chế về tình hình thành lập và hoạt động các cơ sở ươm tạo, cơ sở kỹ thuật, khu làm việc chung. Từ đó phân tích được tác động của chính sách về thành lập và hoạt động các cơ sở ươm tạo, cơ sở kỹ thuật, khu làm việc chung; Đề xuất được nhóm giải pháp chính sách, thực hiện chính sách phù hợp với tình hình thực tiễn về việc thành lập các cơ sở ươm tạo, cơ sở kỹ thuật, khu làm việc chung; Xây dựng văn bản hướng dẫn quy định về việc thành lập các cơ sở ươm tạo, cơ sở kỹ thuật, khu làm việc chung, nhóm đề tài Văn phòng Cục Phát triển thị trường và doanh nghiệp khoa học và công nghệ do TS. Đào Quang Thủy đứng đầu đã đề xuất thực hiện nhiệm vụ: “Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về việc thành lập các cơ sở ươm tạo, cơ sở kỹ thuật, khu làm việc chung theo quy định của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa”.
Sau một thời gian triển khai thực hiện, đề tài đưa ra các kết luận như sau:
- Đề tài đã trình bày những vấn đề cơ sở lý luận và thực tiễn về cơ sở ươm tạo, cơ sở kỹ thuật và khu làm việc chung, đồng thời đề xuất các tiêu chí thành lập các đối tượng trên. Đây là lý thuyết quan trọng để phân tích thực trạng thành lập, hoạt động và chính sách pháp luật về cơ sở ươm tạo, cơ sở kỹ thuật và khu làm việc chung, từ đó rút ra các hạn chế, bất cập của chính sách, thực hiện chính sách và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập trong các chương tiếp theo.
- Đề tài đã trình bày, phân tích thực trạng các nội dung trên cơ cở sở lý luận đã đưa ra. Nội dung được đánh giá gồm: Các chính sách về cơ sở ươm tạo, cơ sở kỹ thuật, khu làm việc chung; thực trạng chính sách thành lập cơ sở ươm tạo, cơ sở kỹ thuật và khu làm việc chung; thực trạng thành lập và hoạt động cơ sở ươm tạo, cơ sở kỹ thuật và khu làm việc chung trong thời gian vừa qua; những thuận lợi và khó khăn của các cơ sở ươm tạo, cơ sở kỹ thuật và khu làm việc chung. Như vậy, những nhận định này sẽ là cơ sở để đưa ra các quy định chính sách thành lập các cơ sở trên trong chương tiếp theo của báo cáo tổng hợp đề án.
- Trên cơ sở khoa học, đề tài đã phân tích thực trạng thành lập và hoạt động của cơ sở ươm tạo, cơ sở kỹ thuật và khu làm việc chung từ đó đã tìm ra các hạn chế, nguyên nhân và đã đề xuất được chính sách pháp luật để thành lập các cơ sở trên. Cụ thể như đã đề xuất định hướng phát triển cơ sở ươm 64 tạo, cơ sở kỹ thuật và khu làm việc chung; đề xuất các quy định chính sách thành lập cơ sở ươm tạo, cơ sở kỹ thuật và khu làm việc chung.
Như vậy, qua quá trình nghiên cứu, về mặt cơ sở lý luận và thực tiễn đề tài đã có những đóng góp nhất định như: đã cung cấp luận cứ khoa học để đề xuất các tiêu chí thành lập cơ sở ươm tạo, cơ sở kỹ thuật và khu làm việc chung. Qua phân tích thực trạng đã tìm ra những hạn chế, nguyên nhân hạn chế thành lập và hoạt động của các cơ sở ươm tạo, cơ sở kỹ thuật và khu làm việc chung để từ đó đề xuất được các quy định chính sách pháp luật thành lập các cơ sở trên phù hợp với bối cảnh của Việt Nam. Các giải pháp đề xuất tập trung vào các quy đinh về điều kiện tài chính, cơ sở vật chất; về nhân sự; về chức năng hỗ trợ của cơ sở ươm tạo, cơ sở kỹ thuật và khu làm việc chung từ đó sẽ tạo điều kiện thuận lợi trong việc thực hiện chính sách hỗ trợ và quản lý các cơ sở trên một cách hiệu quả. Qua nghiên cứu đề án nhóm nghiên cứu đã xây dựng trình Bộ KH&CN ban hành, dự thảo Thông tư hướng dẫn việc thành lập các cơ sở ươm tạo, cơ sở kỹ thuật và khu làm việc chung. Hướng phát triển nghiên cứu tiếp theo để cung cấp luận cứ khoa học phục vụ cho việc hoàn thiện chính sách pháp luật về cơ sở ươm tạo, cơ sở kỹ thuật và khu làm việc chung đó là: đề xuất giải pháp và thực hiện giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ sở ươm tạo, xây dựng Khung chính sách thí điểm khuyến khích thành lập các cơ sở ươm tạo trong các trường đại học và tập đoàn kinh tế trong một số lĩnh vực công nghệ mà Việt Nam có thế mạnh.
Có thể tìm đọc toàn văn Báo cáo kết quả nghiên cứu của Đề tài (Mã số 19493/2021) tại Cục Thông tin khoa học và công nghệ quốc gia.
P.T.T (NASATI)