Nghiên cứu đặc điểm sinh học dịch tễ học bệnh sán lá gan nhỏ (Clonorchiasis Opisthorchiasis) trên người động vật và xây dựng biện pháp phòng trị
Cập nhật vào: Thứ hai - 30/06/2025 13:04
Cỡ chữ
Các loài sán lá gan nhỏ giống Clonorchis và Opisthorchis, thuộc họ Opisthorchiidae. Giống Clonorchis chỉ có một loài là C. sinensis, trong khi đó giống Opisthorchis có trên 50 loài. Những loài quan trọng đối với ngành thú y và y tế là C. sinensis, Opisthorchis viverrini và O. felineus, những loài này phân bố chủ yếu ở các nước Châu Á và Châu Âu. Theo Tổ chức Y tế Thế giới, có khoảng 45 triệu người mắc bệnh và 600 triệu người có nguy cơ mắc bệnh. Các nước như Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc và các nước Đông Nam Á là những vùng có sự lưu hành của sán lá gan nhỏ O. viverrini và C. sinensis. Tại Hàn Quốc, tỉ lệ nhiễm sán lá gan nhỏ ước tính có khoảng 1,86% trên tổng dân số của nước này. Tại khu vực châu Á, Thái Lan có nguy cơ nhiễm sán lá gan nhỏ cao nhất, ước tính tỉ lệ người nhiễm vào khoảng 15%, ước tính thiệt hại kinh tế do bệnh này gây ra khoảng 120 triệu USD.
Tại Việt Nam theo Bộ Y tế (2016), có ít nhất 32 tỉn`h có bệnh sán lá gan nhỏ C. sinensis và O. viverrini trong đó các tỉnh lưu hành nặng nhất là Nam Định, Ninh Bình, Hòa Bình, Hà Nội, Thanh Hóa, Phú Yên, Bình Định. Theo Tổ chức Y tế Thế giới, nguy cơ người Việt Nam tại vùng dịch tễ bị nhiễm sán lá gan nhỏ là 19%, một số trường hợp có thể lên đến 26%. Đến nay đã có một số kết quả điều tra về tỷ lệ nhiễm, thành phần loài trên người ở một số địa phương, nhưng các số liệu, dữ liệu về bệnh trên chó, mèo vẫn chưa được quan tâm. Đặc biệt khi chó mèo đóng vai trò chính, là nguồn thải mầm bệnh ra môi trường với số lượng lớn.
Xuất phát từ thực tiễn trên, Chủ nhiệm đề tài Tiến sĩ Nguyễn Văn Thoại cùng nhóm nghiên cứu tại Phân viện Thú y miền Trung - Viện Thú y thực hiện “Nghiên cứu đặc điểm sinh học dịch tễ học bệnh sán lá gan nhỏ (Clonorchiasis Opisthorchiasis) trên người động vật và xây dựng biện pháp phòng trị” với mục tiêu: xác định được loài gây bệnh, chu kỳ sinh học, thành phần vật chủ của sán lá gan nhỏ và đề xuất được biện pháp phòng trị bệnh trên động vật.
Bệnh sán lá gan nhỏ thường xảy ra ở những vùng có nghề nuôi trồng thủy sản, đặc biệt ở những nơi dân cư có thói quen ăn cá sống hoặc cá chưa nấu chín. Vật chủ cuối cùng là người và một số động vật như chó, mèo, vịt, hổ, báo, cáo, chồn, rái cá, chuột lang, chuột nhà,… Bệnh xảy ra ở mọi lứa tuổi và giới tính, nhưng tỷ lệ nhiễm cao ở nhóm tuổi 40-50 và nam giới nhiễm cao hơn nữ giới (Aunpromma và cộng sự, 2012; Hong và cộng sự, 2012; Sithithaworn và cộng sự, 2012; WHO 2016).
Loài O. viverrini phổ biến ở các lưu vực sông Mekong bao gồm Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam (WHO, 2015). Ở Thái Lan, phát hiện 6 triệu người bị bệnh, tỷ lệ nhiễm lên tới 60% ở tỉnh Nakhon Panom (Sithithaworn và cộng sự, 2012; Samiphak và Syme, 2017). Ở Thái Lan mỗi năm chi phí đối với bệnh này khoảng 120 triệu USD/năm (Kaewpitoon và cộng sự, 2015). Tại Lào, khoảng 98% dân số có nguy cơ nhiễm O. viverrini (Sithithaworn và cộng sự, 2012).
Loài O. felineus là loài đặc hữu ở Siberia, Nga và Châu Âu, ước tính khoảng 1,2 triệu người nhiễm loài sán này (Armignacco và cộng sự, 2008; Mordvinov và cộng sự, 2017b; Furst và cộng sự, 2012).
Loài C. sinensis phổ biến ở các nước Châu Á, nhất là ở Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, miền Bắc Việt Nam, Nga (De và cộng sự, 2003; Chai và cộng sự, 2005; Lun và cộng sự, 2005; Sithithaworn và cộng sự, 2007a; Sithithaworn và cộng sự., 2012). Số người nhiễm trong những nước này ước tính có khoảng 7-15 triệu (WHO, 1995, 1999; Fürst và cộng sự, 2011). Tỷ lệ nhiễm thay đổi từ dưới 1,0% ở Guang Xi (Trung Quốc), đến trên 40% ở phía Bắc Việt Nam, trên 70% Guangdong (Trung Quốc), có trên 1,1 triệu người nhiễm rất nặng (trên 1000 trứng/g phân) (Fürst và cộng sự, 2011).
Sau thời gian nghiên cứu, đề tài đã thu được những kết quả như sau:
1. Tỷ lệ nhiễm trứng sán lá gan nhỏ tại vùng lưu hành bệnh (Phú Yên, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình, Nam Định) là khá cao (18% ở chó và 2,39% ở mèo). Tỷ lệ nhiễm ấu trùng ở ốc B.siamensis (2,62%), ốc B.fuchsiana (2,35%), cá trắm cỏ (10,3%), cá mè trắng (10,1%), cá diếc (11,1%).
-Tỷ lệ nhiễm trứng sán lá gan nhỏ ở người là 14,0%, ăn cá sống là nguy cơ nhiễm sán cao nhất (OR=9,8), sau đó là giới tính nam (OR=6) và nhóm tuổi từ 18 đến 60 tuổi (OR=3,3).
Bệnh sán lá gan nhỏ trên người và động vật tại vùng lưu hành bệnh do loài Opisthorchis viverrini và Clonorchis sinensis gây ra. Tuy nhiên, loài O. viverrini phát hiện ở tỉnh Bình Định và Phú Yên; trong khi đó, C. sinensis phát hiện ở tỉnh Hà Nam, Nam Định và Ninh Bình. Động vật chính lưu trữ bệnh sán lá gan nhỏ là chó và mèo, nhưng chó nhiễm cao hơn so với mèo.
2. Đã xác định được 5 loài sán lá gan nhỏ trên động vật ở Việt Nam (O. viverrini, C.sinensis, O. parageminus, Platynosomum fastosum, Euparadistomum herpestesi). Trong đó 2 loài gây bệnh chung giữa người và động vật. Loài C. sinensis thu thập được ở các tỉnh miền Bắc, có trình tự nucleotit (gen ITS-2) tương đồng từ 99,7-100% và tương đồng với chủng C. sinensis ở Nga (99,5%), Hàn Quốc (99,3%). Loài O.viverrini thu thập được ở các tỉnh miền Trung và miền Nam, có trình tự nucleotit tương đồng từ 99,7-100% và tương đồng với chủng O.viverrini ở Thái Lan (99,3-100%).
Chu kỳ sinh học của sán lá gan nhỏ (O. viverrini và C.sinensis) cơ bản là giống nhau, trứng hình thành miracidium ở ngoài môi trường từ 9-15 ngày; cercaria hình thành và thoát ra khỏi ốc từ 55-62 ngày. Ấu trùng tạo thành dạng nang kén trong cá nước ngọt từ 25-40 ngày. Ấu trùng phát triển đến sán trưởng thành ở chó, mèo từ 26- 32 ngày (loài O. viverrini) và 28-34 ngày (loài C sinensis). Ốc Bithynia siamensis, B. fuchsiana là vật chủ trung gian thứ nhất; cá trắm cỏ, cá mè vinh, cá mè trắng, cá diếc, cá chép là vật chủ trung gian thứ hai.
Chó, mèo bị bệnh sán lá gan nhỏ với các triệu chứng như: Sốt, mệt mỏi, giảm ăn, gầy yếu, bụng chướng, tiêu chảy hoặc táo bón, xoang bụng tích nước, gan viêm và xuất huyết, gan sưng và bề mặt gan có nhiều vết màu trắng xám, túi mật sưng, dạ dày chứa nhiều thức ăn không tiêu, ruột kết viêm.
3. Điều trị bệnh sán lá gan nhỏ ở chó, mèo có thể sử dụng 1 trong các loại thuốc praziquantel 30 mg/kg/ngày, triclabendazole 10 mg/kg/ngày dùng 3 liều trong 3 ngày. Ở vịt sử dụng thuốc praziquantel 10 mg/kg/ngày hoặc triclabendazole 10 mg/kg/ngày dùng 2 liều trong 2 ngày. Đề tài đã xây dựng được quy trình phòng chống bệnh sán lá gan nhỏ ở động vật.
Có thể tìm đọc toàn văn báo cáo kết quả nghiên cứu (mã số 21014/2022) tại Cục Thông tin, Thống kê.
Đ.T.V (NASTIS)