Nghiên cứu đề xuất các mô hình thu gom khai thác bền vững nguồn nước mạch lộ phục vụ cấp nước sạch cho các vùng núi cao, vùng khan hiếm nước khu vực Tây Nguyên
Cập nhật vào: Thứ ba - 23/02/2021 02:02
Cỡ chữ
Theo niên giám thống kê cho đến nay, các tỉnh Tây Nguyên đã có trên 2,93 triệu dân ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số được sử dụng nước hợp vệ sinh (đạt trên 72% trong tổng số dân trên địa bàn), từng bước góp phần nâng cao đời sống cho đồng bào. Tại những vùng khan hiếm nước số dân thiếu nước sạch cao hơn, khoảng 37%.
Tuy nhiên, đến nay, do những biến động khách quan, dòng chảy trên các nguồn lộ này đang có nguy cơ suy giảm, những khu vực xây dựng công trình bến nước hiện có cũng có dấu hiệu mất mạch lộ. Vì vậy, cần phải nghiên cứu nguyên nhân suy giảm nguồn nước mạch lộ và đề xuất được mô hình thu gom khai thác hợp lý. Xuất phát từ lý do trên, nhóm nghiên cứu tại Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam do ThS. Phạm Thế Vinh làm chủ nhiệm, đã thực hiện đề tài: “Nghiên cứu đề xuất các mô hình thu gom khai thác bền vững nguồn nước mạch lộ phục vụ cấp nước sạch cho các vùng núi cao, vùng khan hiếm nước khu vực Tây Nguyên” trong thời gian từ năm 2015 đến năm 2018.
Nghiên cứu nhằm đánh giá hiệu quả các mô hình khai thác và sử dụng nguồn nước mạch lộ và tiềm năng các mạch lộ trong vùng nghiên cứu và đề xuất xây dựng được mô hình khai thác phù hợp hiệu quả các mạch lộ, giải pháp bảo vệ các mạch lộ khỏi bị cạn kiệt và ô nhiễm.
Qua quá trình thực hiện, đề tài đưa ra một số kết luận như sau:
- Đề tài đã thu thập và điều tra được tổng số mạch lộ trên 04 tỉnh Tây Nguyên (Đắk Nông, Đắk Lắk, Gia Lai và Kon Tum) khoảng 2272 mạch lộ. Lưu lượng trung bình cả vùng nghiên cứu khoảng 1,44l/s. Độ khoáng hoá đo được hầu như trong tiêu chuẩn cho phép để cấp nước sinh hoạt. Tại các vùng khan hiếm nước, tổng số các mạch lộ trong vùng khan hiếm nước khoảng 82 mạch lộ. Lưu lượng trung bình các mạch lộ trongvùng khan hiếm nước khoảng 0,66l/s.
- Qua quá trình nghiên cứu về trữ lượng tiềm năng các mạch lộ trên địa bàn, tổng trữ lượng của các mạch lộ khoảng 239,35 triệu m3/năm chiếm 0,54% tổng lượng dòng chảy năm của 4 tỉnh Tây Nguyên. Khi xét đến biến đổi khí hậu đến năm 2030 khoảng 261,73 triệu m3/năm tăng 9% so với tổng trữ lượng tiềm năng khi chưa xét đến biến đổi khí hậu Khi xét đến biến đổi khí hậu đến năm 2050 khoảng 259,46 triệu m3/năm tăng 8% so với tổng trữ lượng tiềm năng khi chưa xét đến biến đổi khí hậu và giảm đi khoảng 1% so với khi xét đến biến đổi khí hậu đến năm 2030.
- Đối với các công trình khai thác nguồn nước mạch lộ, trong bốn tỉnh Tây Nguyên đề tài đã điều tra được khoảng trên 463 công trình bến nước đã được xây dựng. Tuy nhiên, năng lực thiết kế của các công trình chưa đạt hiệu quả cao, các công trình khai thác phục vụ cho các hộ nhỏ, chủ yếu là đồng bào dân tộc. Số công trình hoạt động bình thường khoảng 296 công trình chiếm 63,9% tổng số công trình. Số công trình không đáp ứng năng lực thiết kế khoảng 135 công trình chiếm 29,2% tổng số công trình. Số công trình bị khô không còn dòng chảy khoảng 32 công trình chiếm 6,9% tổng số công trình.
- Đối với việc đề xuất các mô hình thu gom, để tài đề xuất 10 loại mô hình thu gom khai thác nguồn nước mạch lộ, trên cơ sở đó có thể áp dụng và nhân rộng cho việc khai thác và bảo vệ nguồn nước mạch lộ, cụ thể: Mô hình thu gom, khai thác nguồn nước mạch lộ dạng tự chảy Đây là loại mạch lộ phổ biến nhất ở Tây Nguyên, trong dạng mạch lộ này, đề tài đề xuất 08 dạng mô hình sau: Mô hình thu gom, khai thác nguồn nước mạch lộ; Mô hình thu gom, khai thác nguồn nước mạch lộ dạng ống khía rãnh; Mô hình thu gom, khai thác nguồn nước mạch lộ dạng băng thu nước; Mô hình thu gom, khai thác nguồn nước mạch lộ dạng hào thu nước; Mô hình thu gom, khai thác nguồn nước mạch lộ dạng tường chắn; Mô hình thu gom, khai thác nguồn nước mạch lộ dạng đập tràn; Mô hình thu gom, khai thác nguồn nước mạch lộ dạng giếng đào; Mô hình thu gom, khai thác nguồn nước mạch lộ dạng bể thu. Mô hình thu gom, khai thác nguồn nước mạch lộ dạng phun; Mô hình thu gom, khai thác nguồn nước mạch lộ dạng hộp thu; Mô hình thu gom, khai thác nguồn nước mạch lộ dạng giếng thu.
- Từ quá trình nghiên cứu của đề tài, kết hợp với việc khảo sát thực địa, lựa chọn 2 khu vực khan hiếm nước để xây dựng công trình thí điểm thu gom và khai thác nguồn nước mạch lộ. Các điểm này bao gồm: 1 điểm tại xã A Dok huyện Đắk Đoa tỉnh ia Lai cấp nước cho khoảng 800 người trong khu vực; 1 điểm tại xã Quảng Sơn, huyện Đắk Glong tỉnh Đắk Nông cấp nước cho khoảng 1000 người trong khu vực. Kết quả cho thấy, mô hình đã đáp ứng được cho việc khai thác của người dân, công trình tại Đắk Nông cho lưu lượng lớn hơn nhiều so với thiết kế, công trình tại ia Lai đáp ứng được đúng lưu lượng khai thác.
Có thể tìm đọc toàn văn Báo cáo kết quả nghiên cứu của Đề tài (Mã số 15391) tại Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia.
N.P.D (NASATI)