Nghiên cứu đề xuất giải pháp khai thác cơ hội phát triển thương mại của Việt Nam trong cộng đồng kinh tế ASEAN
Cập nhật vào: Thứ hai - 15/03/2021 05:26
Cỡ chữ
Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC - ASEAN Economic Community) đã được tuyên bố thành lập vào ngày 22/11/2015. Thực tế, việc hiện thực hóa AEC đã được triển khai trong cả quá trình dài trước đây. Trong giai đoạn đó, các doanh nghiệp Việt Nam đã tham gia khai thác cơ hội từ các hiệp định tự do thương mại trong nội khối để xuất khẩu, qua đó đưa ASEAN trở thành thị trường xuất khẩu lớn thứ 3 của Việt Nam chỉ đứng sau Hoa Kỳ và EU. Tuy nhiên, các doanh nghiệp Việt Nam dường như chưa tận dụng và phát huy tối đa các lợi thế để đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường này. Số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan cho thấy, trong quan hệ thương mại với ASEAN, Việt Nam vẫn luôn nhập siêu. Năm 2010, Việt Nam thâm hụt thương mại với ASEAN khoảng 6 tỷ USD, tỷ lệ nhập siêu là 57%; đến năm 2015 thâm hụt thương mại lại tăng lên ở mức trên 5 tỷ USD, tỷ lệ nhập siêu trên 30%.
Việc tuyên bố thành lập AEC mang ý nghĩa đánh dấu cho một giai đoạn nỗ lực cao hơn của các nước thành viên trong việc liên kết, hợp tác phát triển Cộng đồng ASEAN. Theo kế hoạch tổng thể đến năm 2025, AEC hướng tới hiện thực hóa dần dần các mục tiêu: 1) Một thị trường đơn nhất và cơ sở sản xuất chung; 2) Một khu vực kinh tế cạnh tranh; 3) Phát triển kinh tế cân bằng; 4) Hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu. hiện thực hóa AEC sẽ tạo ra lợi thế rất lớn về lưu chuyển hàng hóa... trong nội khối ASEAN. Đồng thời, các cam kết tự do hóa thương mại trong AEC sẽ ở mức cao nhất (không thuế quan) trong các FTA Việt Nam ký kết (kể cả CPTTP và các FTA thế hệ mới khác). Vì thế, các chuyên gia kinh tế dự báo, xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vào thị trường ASEAN có thể “bùng nổ” trong những năm tới do doanh nghiệp được hưởng ưu đãi thuế quan, có thể tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa, mức độ thuận lợi hóa thương mại cao, đơn giản và hiện đại hóa thủ tục hải quan, hài hòa tiêu chuẩn và chứng nhận phù hợp, áp dụng các biện pháp kiểm dịch vệ sinh động thực vật linh hoạt... Thực tế, một số doanh nghiệp Việt Nam đã có những bước đi khá toàn diện để khai thác thị trường ASEAN và đón cơ hội từ AEC, nhưng theo đánh giá cũng chưa hiệu quả. Sau 02 năm tuyên bố thành lập AEC, mức thâm hụt cán cân thương mại tiếp tục nghiêng về phía Việt Nam với với mức thâm hụt trị giá 6,7 tỷ USD trong năm 2016. Năm 2017 mức thâm hụt là 6,51 tỷ USD, giảm nhẹ so với 2017 với tỷ lệ nhập siêu 30,3%.
Trong giai đoạn 2018 đến 2025, bên cạnh việc tích cực thực hiện các cam kết trong AEC, Việt Nam cũng sẽ tiếp tục đẩy mạnh hội nhập với các nước bên ngoài ASEAN. Nghị quyết Đại hội Đảng XII (2016) cũng đã khẳng định chủ trương “thực hiện đầy đủ các cam kết trong cộng đồng ASEAN và WTO, tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, hội nhập quốc tế với tầm mức sâu rộng hơn nhiều so với giai đoạn trước”, đồng thời “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát triển đất nước”, “mở rộng và đưa vào chiều sâu các quan hệ đối ngoại; tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện hiệu quả hội nhập quốc tế trong điều kiện mới, tiếp tục nâng cao vị thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế”.
Việc hội nhập sâu hơn vào AEC trong giai đoạn đến 2025, về lý thuyết, chắc chắn sẽ mở ra nhiều cơ hội phát triển thương mại mới cho Việt Nam. Vấn đề đặt ra là việc khai thác các cơ hội phát triển thương mại của Việt Nam trong AEC đến 2025 còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, không chỉ liên quan đến nỗ lực thực hiện các cam kết chung của các nước thành viên trong việc hiện thực hóa AEC, mà còn phụ thuộc vào triển vọng phát triển quan hệ hợp tác của Việt Nam nói riêng và của ASEEAN nói chung với các nước và khu vực bên ngoài ASEAN. Xuất phát từ những lý do trên, đề tài “Nghiên cứu đề xuất giải pháp khai thác cơ hội phát triển thương mại của Việt Nam trong cộng đồng kinh tế ASEAN” do cơ quan chủ trì Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương cùng phối hợp với Chủ nhiệm đề tài TS. Phạm Hồng Tú là cần thiết và giá trị khoa học trong việc thực hiện thành công các mục tiêu về hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Sự ra đời của AEC là sự tiếp nối của các chương trình hợp tác kinh tế nội khối ASEAN. AEC hướng tới việc đưa ASEAN thành một thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất, một khu vực kinh tế có sức cạnh tranh cao, phát triển kinh tế cân bằng và hội nhập đầy đủ vào nền kinh tế toàn cầu. Với những mục tiêu đã đặt ra nhằm hiện thực hóa AEC, các nước thành viên ASEAN sẽ có những lợi ích như tăng trưởng kinh tế nhanh hơn, tạo ra nhiều việc làm hơn, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) mạnh mẽ hơn, phân bố nguồn lực chất lượng cao tốt hơn, tăng cường năng lực sản xuất và tính cạnh tranh cao hơn. Việc khai thác các cơ hội phát triển thương mại của Việt Nam trong quá trình hiện thực hóa ASEAN là một trong những nội dung cần thiết để hiện thực hóa các lợi ích mà mà AEC mang lại và có ý nghĩa đối với nền kinh tế nước ta, đặc biệt là đặt nó trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam phát triển theo định hướng mở cửa trong thời kỳ thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đề tài đã tập trung giải quyết những nhiệm vụ và yêu cầu nghiên cứu được đặt ra trong đề cương nghiên cứu được phê duyệt. Đề tài đã đạt được một số kết quả chủ yếu như: Trên cơ sở tổng quan có hệ thống các nội dung hiện thực hóa AEC, đề tài đã đưa ra những nhận định và đánh giá về các cơ hội, thách thức đối với phát triển thương mại Việt Nam, cũng như xác định các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng khai thác các cơ hôij phát triển thương mại của Việt Nam trong quá trình hiện thực hóa AEC. Đề tài đã phân tích thực trạng phát triển thương mại trong giai đoạn 2007 - 2017 và chỉ ra những thay đổi về thương mại từ khi AEC chính thức tuyên bố thành lập; Phân tích, làm rõ những nguyên nhân ảnh hưởng đến việc khai thác các cơ hội phát triển thương mại trong giai đoạn 2011 - 2017. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu tại chương 1 và 2, Đề tài đã đưa ra các quan điểm, mục tiêu, định hướng và đề xuất các giải pháp phù hợp để khai thác các cơ hội phát triển thương mại của Việt Nam trong giai đoạn 2018 - 2025. Với những kết quả đã được, ban chủ nhiệm hy vọng đề tài sẽ được sử dụng là tài liệu tham khảo có giá trị cho việc hoạch định chính sách phát triển thương mại của Việt Nam trong giai đoạn 2018 - 2025. Tuy nhiên, do những hạn chế khách quan và chủ quan, nội dung nghiên cứu của đề tài sẽ không tránh khỏi những hạn chế. Ban chủ nhiệm đề tài mong muốn tiếp tục nhận được sự góp ý, giúp đỡ từ các nhà khoa học, các nhà quản lý và các nhà kinh doanh để hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ của Đề tài.
Có thể tìm đọc báo cáo kết quả nghiên cứu (mã số 16306/2019) tại Cục Thông tin KHCNQG.
Đ.T.V (NASATI)