Nghiên cứu đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng nước, đảm bảo an toàn công trình đầu mối và hạ du hồ Dầu Tiếng trong điều kiện khí hậu, thời tiết cực đoan
Cập nhật vào: Thứ hai - 09/01/2023 00:01
Cỡ chữ
Khi xây dựng hồ Dầu Tiếng, nhiệm vụ của hồ chủ yếu là phục vụ sản xuất nông nghiệp. Sau khi có công trình Dầu Tiếng, kinh tế, xã hội trong vùng hưởng lợi - vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đã phát triển vượt bậc, tạo thu nhập cho người nông dân gấp 2 đến 5 lần so với trước, chưa kể lợi ích gián tiếp như văn hóa, xã hội, du lịch, giảm thiểu ngập lụt trong mùa lũ v.v…
Tuy nhiên, trong tiến trình phát triển kinh tế xã hội (KTXH) của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam nói chung và TP. HCM nói riêng - vùng kinh tế năng động nhất cả nước, nhiệm vụ cấp nước của hồ Dầu Tiếng (và nay kết hợp với hồ Phước Hòa) có một vị thế chiến lược về cung cấp nước cho sinh hoạt, công nghiệp, dịch vụ…. và phòng lũ, giảm ngập lụt cho hạ du - trong đó có Tp.HCM. Nếu không có hồ Dầu Tiếng, thì nước phục vụ cho sinh hoạt của khoảng 20 triệu dân, nước phục vụ cho các khu công nghiệp trong vùng sẽ gặp khó khăn.
Về hiện trạng các công trình đầu mối sau khi hệ thống công trình thuỷ lợi Dầu Tiếng đã vận hành trên 30 năm, vấn đề chất lượng của các công trình, đặc biệt là đập chính, đập phụ, đập tràn, 3 cống lấy nước từ hồ Dầu Tiếng có đảm bảo an toàn hay không đã được thực hiện bởi HECII năm 2013 về để đánh giá độ “an toàn” của chúng về mặt kết cấu. Do đó, vấn đề an toàn công trình cần tập trung vào an toàn xả lũ và cấp nước trong mùa kiệt.
Để giải quyết vấn đề mâu thuẫn giữa đảm bảo an toàn công trình đầu mối với ngập lụt ở TP. HCM và vùng phụ cận (bao gồm một phần tỉnh Tây Ninh, Bình Dương, Đồng Nai và toàn bộ TP. HCM), thì trước tiên, bài toán chi tiết biến đổi khí hậu (BĐKH) cần thiết phải được tính toán cho lưu vực thượng lưu hồ Dầu Tiếng để tính toán dòng chảy đến và điều tiết hồ trong trường hợp có lũ cực đoan. Ngay cả trong trường hợp lũ tương đối lớn, việc xả lũ nhằm đảm bảo an toàn công trình, nhưng phải giảm thiểu ngập lụt cho hạ du cũng đang là những mâu thuẫn gay gắt trong thực tế đã xảy ra sau hơn 30 năm vận hành công trình. Như vậy, để giải quyết các mâu thuẫn này, cần phải có các giải pháp công trình hoăc phi công trình hoặc kết hợp. Đối với giải pháp công trình, trong đó có các giải pháp đề xuất trong đề tài do Nguyễn Phú Quỳnh làm chủ nhiệm, là các giải pháp phân lũ, nâng cao đập sẽ được kế thừa. Hiệu quả của các giải pháp này và tác động của chúng cần được đánh giá bằng công cụ tin cậy hơn (mô hình 2D). Về giải pháp phi công trình, đó là giải pháp dự báo mưa lũ, cảnh báo ngập lụt theo các mức xả lũ khác nhau của hồ Dầu Tiếng (độ sâu, thời gian ngập…) để có kế hoạch di dời dân cư trong trường hợp bắt buộc phải xả lũ lớn. Về công tác quản lý vận hành hồ chứa, nhất là trong trường hợp cực đoan (lũ lớn), thì việc quản lý và ra quyết định vận hành cũng cần được nghiên cứu nhằm đảm bảo vận hành kip thời, hiệu quả.
Xuất phát từ thực tiễn trên, Cơ quan chủ trì Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam cùng phối hợp với Chủ nhiệm đề tài PGS.TS. Đinh Công Sản thực hiện “Nghiên cứu đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng nước, đảm bảo an toàn công trình đầu mối và hạ du hồ Dầu Tiếng trong điều kiện khí hậu, thời tiết cực đoan” với mục tiêu: Đánh giá được thực trạng cấp nước, an toàn công trình đầu mối hồ và hạ du công trình Dầu Tiếng sau hơn 30 năm vận hành, đặc biệt những năm lũ, hạn cực đoan; Đề xuất phương án cấp nước hiệu quả cho các đối tượng dung nước (khu vực TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương…) vào các năm có điều kiện khí tượng thủy văn bất lợi như khan hiếm nước, mặn xâm nhập sâu; Đề xuất được giải pháp giải quyết mâu thuẫn giữa bảo đảm an toàn hệ thống công trình đầu mối, hạ du công trình, ngập lụt TP. Hồ Chí Minh và các vùng lân cận khi có lũ cực đoan.
Sau thời gian nghiên cứu, đề tài đã thu được những kết quả như sau:
Thiết lập bộ cơ sở dữ liệu đồng bộ về hồ Dầu Tiếng và vùng hạ du. Đánh giá thực trạng và khả năng tích nước, cấp nước, an toàn công trình đầu mối sau hơn 30 năm hoạt động. Đánh giá khả năng mất an toàn cấp nước và khả năng cấp nước của hồ Dầu Tiếng, Phước Hoà trong điều kiện thời tiết, khí hậu hiện tại, cực đoan về hạn hán và đề xuất giải pháp khắc phục. Đề xuất giải pháp giải quyết mâu thuẫn giữa bảo đảm an toàn hệ thống công trình đầu mối, hạ du công trình, ngập lụt Tp. HCM và vùng lân cận khi có lũ cực đoan.
Các giải pháp phi công trình bao gồm (i) Hạ thấp mực nước đón lũ từ cao trình 23,3 m xuống cao trình 21,8 m để tăng dung tích phòng lũ, trong khi vẫn đảm bảo an toàn cấp nước trong giai đoạn hiện nay, do nhu cầu dùng nước trong nông nghiệp giảm (nhờ chuyển đổi cơ cấu ngành Nông nghiệp). Khi xảy ra các tần suất lũ thiết kế 0,1%, lũ kiểm tra 0,02% và 0,01%, hồ Dầu Tiếng vẫn đảm bảo an toàn và mức xả tối đa xuống hạ du 200 m3/s. (ii) Lập tương quan giữa dự báo mưa toàn cầu và mưa thực đo trên lưu vực cho các trận mưa lớn (chẳng hạn như khi có áp thấp nhiệt đới xảy ra trong vùng) để có thể xả lũ sớm và cảnh báo xả lũ về hạ du; (iii) Sử dụng các bản đồ chiều sâu và thời gian ngập ứng với 30 kịch bản khác nhau phục vụ cho việc cảnh báo ngập lụt ở hạ du của các địa phương. Kết quả nghiên cứu cho thấy tác động xả lũ của hồ Dầu Tiếng đến ngập lụt vùng hạ du chủ yếu là vùng từ chân đập (Km 00) đến Thủ Dầu Một (Km 90), còn ở khu vực Tp.HCM, tác động không nhiều.
Các giải công trình đã được đánh giá thông qua mô hình toán Telemac2D và đưa ra nhận định bao gồm (i) phân lũ từ sông Sài Gòn qua sông Vàm Cỏ Đông và xây dựng hồ điều hòa ở vùng thượng lưu (Củ Chi) là không khả thi; (ii) Các giải pháp nâng cao đập Dầu Tiếng, nâng cao đê bao khá tốn kém và chưa phù hợp trong tương lai gần. Mặt khác, các giải pháp này chỉ giảm thiểu được ngập lụt cho vùng thượng lưu là chính; (iii) Để giảm thiểu ngập lụt do mưa lớn và triều cường ở khu vực Tp.HCM, giải pháp xây dựng kè EPT và xây dựng các công trình chống ngập theo quy hoạch 1547 của chính phủ là những giải pháp giảm thiểu được ngập lụt cho vùng hạ du tương ứng từ 7% đến 12%. Những kết quả nghiên cứu về EPT đã được sở KH&CN Tp.HCM ủng hộ, các cơ quan trung ương cũng đồng tình, cần được nghiên cứu sâu hơn về bài kinh tế và thử nghiệm trước khi ứng dụng cho Tp.HCM (hiện nay tỉnh Đồng Nai đã đồng ý cho áp dụng thử nghiệm).
Xây dựng mốc cảnh báo ngập lụt trên thực tế cho 2 vị trí (ở Tp.HCM, tỉnh Bình Dương) và xây dựng cơ sở dữ liệu về hồ Dầu Tiếng và hạ du
Có thể tìm đọc báo cáo kết quả nghiên cứu (mã số 18023/2019) tại Cục Thông tin khoa học và công nghệ quốc gia.
Đ.T.V (NASATI)