Nghiên cứu, đề xuất giải pháp thúc đẩy hoạt động dán nhãn các-bon thấp cho các sản phẩm công nghiệp của Việt Nam
Cập nhật vào: Thứ tư - 20/09/2023 00:14
Cỡ chữ
Sản xuất và tiêu dùng bền vững đang là xu thế của toàn cầu, trách nhiệm của bên sản xuất cũng như bên tiêu dùng về môi trường đang được xác lập. Vai trò của thị trường trong phòng ngừa và kiểm soát ô nhiễm, gồm cả phát thải khí nhà kính (KNK) ngày càng được đề cao. Theo đó nhãn các-bon thấp đã được một số quốc gia áp dụng nhằm đảm bảo việc chuyển dịch, rò rỉ các-bon từ quốc gia này sang quốc gia khác được nhận diện và tính toán đầy đủ trong tổng phát thải các-bon toàn cầu. Trong xu hướng đó, việc nghiên cứu và đánh giá tiềm năng dán nhãn các-bon cho các sản phẩm công nghiệp của Việt Nam là cần thiết, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu và chiến lược tăng trưởng xanh của Việt Nam.
Trong khuân khổ Chương trình hành động quốc gia về sản xuất và tiêu dùng bền vững đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, nhóm nghiên cứu của TS. Nguyễn Sỹ Linh tại Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và Môi trường đã thực hiện đề tài: “Nghiên cứu, đề xuất giải pháp thúc đẩy hoạt động dán nhãn các-bon thấp cho các sản phẩm công nghiệp của Việt Nam” từ năm 2018 đến năm 2019
Mục tiêu của đề tài tập trung vào việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm góp phần hoàn thiện cơ sở pháp lý, khuyến khích các doanh nghiệp tham gia chương trình dán nhãn các-bon, nhãn các-bon thấp cho các sản phẩm do mình sản xuất, hướng đến đáp ứng các yêu cầu của các thị trường xuất khẩu khác nhau trên thế giới.
Kết quả rà soát và phân tích kinh nghiệm quốc tế cho thấy nhãn các-bon là một trong những hình thức huy động sự tham gia của thị trường (cả bên sản xuất và bên tiêu dùng) nhằm góp phần nâng cao nhận thức và trách nhiệm của xã hội trong việc giảm phát thải KNK trên phạm vi toàn cầu đang được một số quốc gia thực hiện. Tuy nhiên nhãn các-bon là một loại nhãn sinh thái mới, đang ở giai đoạn phát triển ban đầu. Hiện nay nhãn các-bon (gồm nhãn dấu chân các-bon, nhãn các-bon thấp, nhãn không các-bon…) đã được áp dụng thử nghiệm ở nhiều quốc gia phát triển như Đức, Pháp, Hoa Kỳ, Hàn Quốc, Nhật Bản…và một số quốc gia đang phát triển như Thái Lan, Đài Loan...
Kết quả điều tra, khảo sát cho thấy tại Việt Nam hiện chưa có chương trình dán nhãn các-bon mà mới chỉ có Chương trình nhãn xanh Việt Nam và Nhãn năng lượng chính thức được thiết lập. Chương trình nhãn xanh Việt Nam do Bộ Tài nguyên và Môi trường quản lý, đã ban hành 17 bộ tiêu chí và cấp chứng nhận cho 112 loại sản phẩm. Các nhóm sản phẩm được cấp nhãn xanh Việt Nam chủ yếu tập trung vào thiết bị văn phòng, thiết bị chiếu sáng, vật liệu xây dựng… mà chưa có sản phẩm may mặc hay hàng hóa tiêu dùng thiết yếu khác. Chương trình Nhãn năng lượng của Việt Nam cũng có những thay đổi, chuyển từ việc dán nhãn tự nguyện sang giai đoạn bắt buộc đối với một số nhóm sản phẩm. Theo Quyết định 04/2017/QĐ-TTg ngày 9 tháng 3 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ “quy định danh mục phương tiện, thiết bị bắt buộc dán nhãn năng lượng, áp dụng mức hiệu suất năng lượng tối thiểu và lộ trình thực hiện khác nhau” có 3 nhóm bắt buộc dán nhãn năng lượng gồm (i) nhóm thiết bị gia dụng và nhóm thiết bị công nghiệp; (ii) nhóm thiết bị văn phòng và thương mại; (iii) nhóm phương tiện giao thông vận tải (sản xuất, lắp ráp và nhập khẩu mới).
Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng trong điều kiện Việt Nam hiện nay, khi chưa có nhiều nghiên cứu về nhãn các-bon và dữ liệu về đánh giá vòng đời sản phẩm (LCA) của các nhóm sản phẩm hàng hóa/dịch vụ và dấu chân các-bon của sản phẩm (PCF), việc lựa chọn nhóm sản phẩm dán nhãn các-bon có vai trò hết sức quan trọng. Theo đó đề tài đề xuất 5 tiêu chí/yêu cầu về lựa chọn nhóm sản phẩm để dán nhãn các-bon thấp (i) thuộc lĩnh vực giảm phát thải bắt buộc trong Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC); (ii) sử dụng nhiều năng lượng (trong sản xuất, lưu thông, sử dụng và thải bỏ; (iii) Được sản xuất tại Việt Nam/Thuộc danh mục các mặt hàng ưu tiên tập trung nâng cao năng lực cạnh tranh theo Quyết định 1137/QĐ-TTg ngày 3 tháng 8 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ; (iv) Được xuất khẩu sang thị trường châu Âu, Nhật Bản và Hoa Kỳ; (v) Sản xuất bởi doanh nghiệp có chứng nhận ISO 14000/hoặc đã có sản phẩm được cấp Nhãn xanh Việt Nam. Trên cơ sở các yêu cầu nêu trên và thực tế sản xuất tại Việt Nam cũng như nguyên tắc dán nhãn các-bon, nhóm nghiên cứu đề xuất lựa chọn các nhóm sản phẩm gồm dệt may (áo sơ mi, quần âu,…); đồ gỗ nội thất và văn phòng (bàn ăn, bàn làm việc,…); nông sản (như gạo xuất khẩu, cà phê, ca-cao,…) và giầy dép (giầy thể thao, dép sê-đan,…), thiết bị văn phòng (ví dụ, máy in),… là những nhóm sản phẩm ưu tiên thử nghiệm dán nhãn các-bon của Việt Nam trong thời gian tới.
Để thúc đẩy hoạt động dán nhãn các-bon ở Việt Nam, nhóm nghiên cứu đề xuất quy trình dán nhãn các-bon thấp ở Việt Nam gồm 4 bước. Bước 1: Sàng lọc và lựa chọn sản phẩm thuộc nhóm ưu tiên dán nhãn các-bon; Bước 2: Tính toán dấu chân các-bon của sản phẩm dán nhãn (dựa trên phương pháp PAS2050, GHG Protocol hoặc ISO 14067:2018 để tính toán phát thải KNK); Bước 3: So sánh lượng phát thải các-bon của sản phẩm dán nhãn với mức phát thải tiêu chuẩn của sản phẩm cùng loại; Bước 4: Chứng nhận nhãn các-bon thấp cho sản phẩm nếu mức phát thải các-bon của sản phẩm thấp hơn mức phát thải cơ sở. Trong giai đoạn đầu, chương trình dán nhãn các-bon của Việt Nam có thể bỏ Bước 3 để cấp nhãn các-bon (không phải nhãn các-bon thấp) cho sản phẩm đã có số liệu phát thải các-bon (dấu chân các-bon) nhằm cung cấp cho người tiêu dùng biết mức phát thải các-bon mà mình sẽ sử dụng; Bước 5: Dán nhãn các-bon lên sản phẩm và đưa ra thị trường.
Qua rà soát kinh nghiệm quốc tế và đánh giá hiện trạng triển khai 2 chương trình dán nhãn môi trường (nhãn năng lượng và nhãn xanh), trong thời gian tới Việt Nam nên thiết lập 2 chương trình nhãn các-bon riêng biệt cho các sản phẩm tiêu dùng trong nước và nhãn các-bon đối với thị trường xuất khẩu. Theo đó, đối với nhóm sản phẩm trong nước cần có chính sách hỗ trợ danh nghiệp tính toán dấu chân các-bon của sản phẩm, dán nhãn theo màu sắc. Ví dụ, màu XANH lá cây- dán cho các sản phẩm phát thải KNK thấp; màu VÀNG- dán cho các sản phẩm phát thải KNK trung bình và màu ĐỎ- dán cho các sản phẩm phát thải KNK cao. Đối với nhãn dán cho sản phẩm xuất khẩu nên dán nhãn các-bon thấp, theo đó nhà nước cần có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp chi phí thuê tư vấn tính toán dấu chân các-bon của sản phẩm và lộ trình giảm phát thải để đạt được tiêu chí sản phẩm các-bon thấp như kinh nghiệm của Thái Lan.
Đề tài cũng đề xuất lộ trình thúc đẩy dán nhãn các-bon ở Việt Nam cần được triển khai qua 3 giai đoạn khác nhau. Giai đoạn chuẩn bị: 2020-2021; Giai đoạn thử nghiệm: 2022-2024; và Giai đoạn mở rộng: 2025 - 2030.
Có thể tìm đọc báo cáo kết quả nghiên cứu (mã số 18784/2019) tại Cục Thông tin khoa học và công nghệ quốc gia.
N.P.D (NASATI)