Nghiên cứu đề xuất mô hình đầu tư xây dựng và quản lý khai thác hệ thống thủy lợi nội đồng khi chuyển đổi đất trồng lúa sang các cây trồng có giá trị kinh tế cao nhằm thích ứng với biến đổi khí hậu
Cập nhật vào: Thứ hai - 19/05/2025 13:04
Cỡ chữ
Do nhu cầu tiêu dùng thực phẩm trên thế giới tăng cao, trào lưu chuyển đổi đất canh tác từ nhóm cây trồng truyền thống sang các cây trồng có giá trị kinh tế cao đang diễn ra ở nhiều quốc gia nông nghiệp. Đối với nhiều khu vực, lựa chọn giống cây trồng sử dụng nước ít cũng là giải pháp căn bản để thích ứng với biến đổi khí hậu và cạn kiệt nguồn nước ngày càng trở nên khốc liệt và rõ rệt hiện nay. Là một phần lãnh thổ Đông Nam Á, ĐBSCL của Việt Nam có các hệ sinh thái phong phú, điển hình trong khu vực và trên thế giới. Thực tế này cho thấy, ĐBSCL vốn hội tụ được nhiều yếu tố để đa dạng các loài thực vật, động vật sinh sống và phát triển. Đó cũng là lý do tại sao, sản xuất nông nghiệp và thủy sản ở ĐBSCL đóng vai trò trụ cột của nền kinh tế Việt Nam trong những thập kỷ vừa qua. Vùng có vị thế, vai trò quan trọng, không những là cứ điểm chiến lược về nông nghiệp, vùng sản xuất lúa gạo, trái cây, thủy sản và vùng còn là một động lực thúc đẩy phát triển kinh tế của cả nước.
Năm 2019, tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) đạt 933 nghìn tỷ đồng, đóng góp 12,08% cho GDP cả nước; tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế chiếm trên 1/3 của vùng và 34,6% GDP ngành nông nghiệp và đóng góp 54% sản lượng lúa, 70% sản lượng nuôi trồng thủy sản và 60% lượng trái cây của cả nước. Theo định hướng phát triển của vùng ĐBSCL trong giai đoạn tới sản xuất nông nghiệp hàng hóa chất lượng, giá trị và giá trị gia tăng cao thích ứng với BĐKH với 3 trọng tâm chính là thủy sản, cây ăn quả, lúa gạo theo tỷ lệ, cơ cấu phù hợp diễn biến của khí hậu, môi trường và thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Biến đổi khí hậu và nước biển dâng và sự gia tăng nhu cầu sử dụng nước ở thượng nguồn sông Mekong đã gây ra những rủi ro lớn đối với hệ thống tài nguyên đất và nước của ĐBSCL trong vài thập kỷ gần đây. Những thách thức đó thúc đẩy chính quyền các địa phương và nông dân trong vùng cấu trúc lại hệ thống sản xuất, chuyển đổi đất sản xuất và giống vật nuôi cây trồng và ứng dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất.
Bên cạnh các hoạt động xây dựng nông thôn mới theo chương trình mục tiêu quốc gia, nhiều địa phương đã triển khai các dự án thủy lợi nội đồng nhằm cải thiện chất lượng dịch vụ cấp (tưới) và tiêu nước cho các tổ chức và hộ sản xuất nhằm thích ứng với biến đổi khí hậu. Nhiều đề tài nghiên cứu về kỹ thuật, công nghệ và quản lý công trình thủy lợi đã được thực hiện nhằm hỗ trợ nuôi trồng thủy sản mang lại hiệu quả. Ngược lại, trong các dự án chuyển đổi đất nông nghiệp sang trồng cây có giá trị kinh tế cao, giải pháp thủy lợi (nội đồng) vẫn chưa được quan tâm nghiên cứu. Do vậy, hiệu quả và tính bền vững của hệ thống thủy lợi nội đồng nói riêng và dự án chuyển đổi đất canh tác nói chung ở ĐBSCL vẫn còn nhiều quan ngại.
Để luận giải các vấn đề trên đây, Chủ nhiệm đề tài TS. Nguyễn Tuấn Anh cùng nhóm nghiên cứu tại Viện Kinh tế và Quản lý Thủy lợi thực hiện đề tài “Nghiên cứu đề xuất mô hình đầu tư xây dựng và quản lý khai thác hệ thống thủy lợi nội đồng khi chuyển đổi đất trồng lúa sang các cây trồng có giá trị kinh tế cao, nhằm thích ứng với biến đổi khí hậu, phục vụ xây dựng nông thôn mới ở Đồng bằng Sông Cửu Long” với mục tiêu đề xuất được mô hình đầu tư (quy mô và phương thức) xây dựng và quản lý hiệu quả hệ thống thủy lợi nội đồng khi chuyển đổi đất trồng lúa sang các cây trồng có giá trị kinh tế cao (cây hoa màu và cây ăn trái) phục vụ góp phần xây dựng nông thôn mới ở ĐBSCL.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu của đề tài, một số kết luận được rút ra bao gồm:
Vùng ĐBSCL của Việt Nam có các hệ sinh thái phong phú, điển hình trong khu vực và trên thế giới, hội tụ được nhiều yếu tố để đa dạng các loài thực vật, động vật sinh sống và phát triển. Vùng đóng vai trò trụ cột của nền kinh tế Việt Nam trong những thập kỷ vừa qua và có vị thế, vai trò quan trọng, không những là cứ điểm chiến lược về nông nghiệp, vùng sản xuất lúa gạo, trái cây, thủy sản và vùng còn là một động lực thúc đẩy phát triển kinh tế của cả nước. Định hướng phát triển của vùng trong giai đoạn tới sản xuất nông nghiệp hàng hóa chất lượng, giá trị và giá trị gia tăng cao thích ứng với BĐKH với 3 trọng tâm chính là thủy sản, cây ăn quả, lúa gạo theo tỷ lệ, cơ cấu phù hợp diễn biến của khí hậu, môi trường và thị trường tiêu thụ sản phẩm. Tuy nhiên, vùng đang đối diện với các vấn đề nội tại như quản lý nước, thâm canh công nghiệp, đô thị đi kèm với ô nhiễm đất, nước, hệ sinh sinh thái và suy giảm tài nguyên.
Chính phủ đã có chính sách chuyển đổi cơ cấu cây trồng từ đất trồng lúa sang các cây trồng có giá trị kinh tế cao (cây màu và cây ăn trái). Thông qua kết quả khảo sát 6 tỉnh thì diện tích chuyển đổi từ đất trồng lúa giai đoạn 2017- 2020 cho thấy đối với cây ăn trái thì cây Chanh, cây Mít thái, Thanh Long, Cam và xoài (chiếm tỷ trọng khoảng 65% các cây ăn trái chuyển đổi của khu vực). Đối với cây màu, có 3 loại cây trồng chuyển đổi đổi lớn nhất là rau màu, khoai các loại, bắp và dưa hấu chiếm tỷ trọng khoảng hơn 90% tổng diện tích. Diện tích chuyển đổi chủ yếu nằm ở vùng giữa là 3 tỉnh Long An, Tiền Giang và Vĩnh Long. Các hộ dân chuyển đổi từ đất trồng lúa sang trồng cây ăn trái nhiều hơn so với cây màu. Lý do chính các hộ dân chuyển đổi trong khu vực chủ yếu khía cạnh kinh tế theo thứ tự ưu tiên là (1) lợi nhuận, (2) mức giá của sản phẩm chuyển đổi và (3) nhu cầu của thị trường. Các nhóm yếu tố liên quan đến môi trường được xếp sau nhóm yếu tố về kinh tế, nhóm yếu tố liên quan đến xã hội được xếp ở cuối cùng. Phương pháp tưới trên vùng đất chuyển đổi từ đất trồng lúa phụ thuộc rất nhiều vào lợi nhuận của người dân thu được. Tương ứng với các cây trồng cho lợi nhuận cao thì các hộ dân sẽ áp dụng phương pháp tưới phun mưa và nhỏ giọt, đối với các cây trồng có giá trị thấp hơn, theo thời vụ và theo thị trường (như cây màu) thì người dân sẽ áp dụng các phương pháp tưới đơn giản, chi phí đầu tư thấp.
Về quy mô của các hộ các hộ chuyển đổi trung bình đối với cây ăn trái khoảng 1,390 ha/hộ, với cây màu khoảng 0,804 ha/hộ. Các hộ dân ở vùng giữa (Long An, Tiền Giang, Hậu Giang, Sóc Trăng và Vĩnh Long) có quy mô diện tích chuyển đổi lớn hơn so với các vùng còn lại. Với những hộ có quy mô chuyển đổi lớn thường áp dụng phương pháp tưới phun mưa và nhỏ giọt để tưới.
Sử dụng hàm lợi nhuận biên ngẫu nhiên biên Cobb-Douglas cho thấy lợi nhuận của nhóm nông hộ tham gia cao gấp 1,156 lần so với các hộ không tham gia tổ chức kinh tế tập thể trên vùng đất đã chuyển đổi từ cây lúa sang cây ăn quả. Sự khác biệt này sẽ gia tăng khi phát triển tổ chức kinh tế tập thể, thu hút được các thành viên tham gia trong dài hạn. Tổ chức kinh tế tập thể mang lại nhiều lợi ích như nâng cao trình độ, áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, có sản phẩm gắn với chuỗi giá trị, phát triển bền vững. Đồng thời, giúp xây dựng thương hiệu tập thể sản xuất, liên kết với doanh nghiệp, tổ chức hợp tác kinh tế khác.
Khi chuyển đổi từ đất trồng lúa sang cây hoa màu và cây ăn trái về cơ bản hệ thống thủy lợi nội đồng giữ nguyên như đối với đất trồng lúa. Các công trình thủy lợi nội đồng đã đầu tư như tưới đối với lúa nhưng yêu cầu lượng nước tưới cây ăn trái và cây màu thấp hơn so với cây lúa (thường thấp hơn khoảng 10 lần tính trung bình cho 1 năm). Các giải pháp thủy lợi nội đồng đầu mối cơ bản giữ nguyên và được đầu tư trước đó hoặc cung cấp cho các loại cây trồng trong khu vực. Mức thu thủy lợi nội đồng đối với cây ăn trái cây màu bằng ½ so với cây lúa, đối với cây ăn trái bằng ¼ so với lúa. Các biện pháp tưới trong hộ gia đình các hộ sử dụng 6 phương pháp tưới khác nhau bao gồm: tưới phun mưa, tưới nhỏ giọt, tưới rãnh, tưới giải và tưới bằng máy bơm (máy bơm bơm và ống mềm hoặc thuyền bơm di động tưới phun). Trong các phương pháp này các hộ dân thường sử dụng phương pháp tưới phun mưa và nhỏ giọt đối với các cây ăn trái có giá trị cao (mít, xoài, chanh, thanh long,...) và cây màu (dưa hấu, mướp, khổ qua) phương pháp này có nhiều ưu điểm như tăng năng suất cây trồng, chất lượng sản phẩm đồng đều, giảm công lao động tưới tiêu, tiết kiệm nước nhưng giá trị đầu tư cao chi phí đầu tư hoàn thiện khoảng 40 triệu - 86 triệu đồng/ha tùy thuộc vào khoảng cách các cây trồng. Đối với phương pháp tưới tưới bằng máy bơm (máy bơm và ống mềm hoặc thuyền bơm di động) được các hộ dân tưới cho cây ăn trái (cây cam, chanh, bưởi) hoặc các cây màu (dưa hấu và bắp). Phương pháp này có ưu điểm chi phí đầu tư nhỏ từ 3-8 triệu đồng/ha nhưng chi phí quản lý vận hành lớn, tốn nhiều công lao động cho tưới. Đối với các phương pháp còn lại được các hộ dân chuyển đổi áp dụng chủ yếu chuyển đổi sang cây màu và cây ăn trái nhỏ lẻ không tập trung, tự phát. Đặc biệt một số vùng xen canh giữa các loại cây màu với nhau.
Doanh thu phân bổ đối với các chi phí đầu vào, tương ứng với phần đầu tư và chi phí cho tưới, tiêu đối với cây ăn trái như cây Mít là 45,69 triệu đồng/năm, cây Thanh long là 15,23 triệu đồng/năm, cây cam là 15,58 triệu đồng/năm, cây xoài là 16,88 triệu đồng/năm. Đối với các loại cây hoa màu là 3,97 triệu đồng/năm, cây dưa hấu là 3,42 triệu đồng/năm. Nhìn chung, đối với cây ăn trái cho doanh thu lớn hơn dẫn đến phân bổ nguồn thu cho doanh thu mang lại từ hệ thống tưới lớn hơn.
Mong muốn về sản phẩm, dịch vụ thủy lợi của các hộ dân trên vùng đất chuyển đổi đất trồng lúa sang cây màu và cây ăn trái về mặt khối lượng là đảm bảo nguồn nước tưới, và đảm bảo tiêu nước kịp thời đối với một số khu vực bị thấp trũng. Đối với chất lượng sản phẩm, dịch vụ thủy lợi trên vùng đất chuyển Báo cáo tóm tắt 55 đổi đảm bảo ngăn mặt và giữa ngọ cho cây trồng đồng thời giảm thiểu ô nhiễm nguồn nước đối một số mô hình khảo sát ở vùng giữa bị ảnh hưởng bởi nguồn nước tưới khu vực trước đó.
Có thể tìm đọc toàn văn báo cáo kết quả nghiên cứu (mã số 20869/2022) tại Cục Thông tin, Thống kê.
Đ.T.V (NASTIS)