Nghiên cứu giải pháp chuyển đổi sản xuất nông nghiệp thích ứng với hạn mặn vùng Tây Nam Bộ, nghiên cứu trường hợp điển hình tại tỉnh Bến Tre
Cập nhật vào: Thứ năm - 06/06/2024 00:09
Cỡ chữ
Việt Nam nằm ở bờ Tây của Thái Bình Dương thuộc nhóm các nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất do biến đổi khí hậu (BĐKH) và nước biển dâng (NBD), trong đó Đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) là vùng bị tác động mạnh nhất với những biểu hiện rất rõ nét của các hiện tượng thời tiết cực đoan, bao gồm: mưa cường độ lớn và thời gian kéo dài, gây lũ lớn với hậu quả xói lở bờ hệ thống sông Cửu Long và ngập lụt trên diện rộng; nắng nóng, khô hạn cùng với xâm nhập mặn (XNM) theo các triền sông đi sâu vào nội đồng, gây thiệt hại đến sự phát triển kinh tế xã hội và làm đảo lộn cuộc sống của cư dân đồng bằng. Mức độ nghiêm trọng của hạn hán và tác động của nó phụ thuộc không chỉ vào thời gian, cường độ, phạm vi không gian, mà còn đối với môi trường cụ thể và các hoạt động kinh tế bên trong nó, cũng như năng lực của hệ thống thể chế và xã hội đối mặt với nó.
Trước yêu cầu của thực tiễn và để phát triển bền vững vùng ĐBSCL, PGS. TS. Nguyễn Hồng Quân và nhóm nghiên cứu tại Trung tâm Quản lý nước và Biến đổi khí hậu thực hiện đề tài: “Nghiên cứu giải pháp chuyển đổi sản xuất nông nghiệp thích ứng với hạn mặn vùng Tây Nam Bộ, nghiên cứu trường hợp điển hình tại tỉnh Bến Tre” trong thời gian từ năm 2017 đến năm 2020.
Đề tài nhằm thực hiện những mục tiêu sau: xây dựng được các mô hình sinh kế nông nghiệp bền vững, chủ động theo nguồn nước đảm bảo thích ứng với điều kiện hạn mặn gia tăng như hiện nay vừa đạt hiệu quả cao về kinh tế và môi trường cho vùng Tây Nam Bộ; và nghiên cứu khả năng nhân rộng và phát triển mô hình sản xuất thích ứng với hạn mặn trên quy mô toàn tỉnh Bến Tre.
Đề tài đã thu được các kết quả như sau:
- Từ mô hình toán cập nhật cho Bến Tre đã đưa ra các kịch bản: kịch bản 1 về hiện trạng nền năm 2016; kịch bản 2 về trạng nền + gió chướng; kịch bản 3 gồm: hiện trạng nền + NBD 30 cm; kịch bản 4 gồm hiện trạng nền + NBD 75 cm. Theo đó XNM ở Bến Tre ngày càng trở nên trầm trọng và phức tạp. Gia tăng nồng độ mặn và chiều sâu XNM vào nội đồng, tăng diện tích độ mặn từ 4‰ trở lên chiếm 60 - 70% diện tích tự nhiên của tỉnh Bến Tre. Các yếu tố ảnh hưởng đến XNM ở ĐBSCL và Bến Tre bao gồm: nguồn nước từ Biển Hồ Campuchia, từ lưu lượng dòng chảy trên dòng chính sông Mekong, từ các hồ đập nội địa, từ ảnh hưởng của gió chướng và từ nước biển Đông. Giảm nhẹ XNM hoặc thích ứng với hạn mặn trong tương lai là vấn đề cần được cân nhắc và có giải pháp phù hợp.
- Mức độ khô hạn và diễn biến khô hạn trên địa bàn tỉnh Bến Tre đã được đánh giá bằng cách phân tích số liệu thống kê khí tượng và tính toán chỉ số khô hạn TVDI bằng cách giải đoán ảnh vệ tinh Landsat và MODIS về mức độ ẩm thông qua sự tồn tại và phát triển của thảm thực vật.
- Tính thích nghi của đất đai ở vùng ĐBSCL được đánh giá thông qua việc xử lý, chồng lắp các bản đồ đơn tính bằng kỹ thuật GIS (Mapinfo 12.0) cho thấy vùng ĐBSCL có 10 vùng thích nghi cho 10 kiểu thích nghi đất đai được chọn lọc. Các cấp thích nghi sẽ thay đổi giữa các tranh chấp mặn, ngọt và lợ với nhau làm thay đổi diện tích và sự phân bố của các vùng thích nghi. Trong tương lai, đất trồng lúa sẽ có xu hướng giảm xuống, thay vào đó là diện tích các kiểu sử dụng thuộc vùng sinh thái mặn, lợ (chuyên tôm, lúa tôm, tôm - rừng) sẽ gia tăng tại các tỉnh như Kiên Giang, Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh và tỉnh Bến Tre. Kết quả nghiên cứu này làm cơ sở định hướng cho quy hoạch ngành nông nghiệp trong tương lai.
Hiệu quả các mô hình sinh kế nông nghiệp thí điểm tại Bến Tre đã được xác lập. Căn cứ vào điều kiện tự nhiên, bối cảnh xã hội, tài nguyên đất đai và nguồn nước, đặc biệt là năng lực về tài chính và lao động, đề tài đã chọn lựa được các vị trí thuận lợi và các hộ nông dân có điều kiện phù hợp để xây dựng mô hình sinh kế thuộc 2 loại: (i) mô hình nuôi gia súc, chủ yếu là bò sữa và nuôi dê, chủ yếu là dê sinh sản và dê thịt; (ii) mô hình kết hợp nuôi thủy sản, chủ yếu là tôm và trồng lúa, hoặc nuôi thủy sản kết hợp với các đối tượng canh tác khác. Đề tài đã hỗ trợ con giống và một phần kinh phí để sửa sang chuồng trại và mua thức ăn tinh, chuyển giao công nghệ và phối hợp với nông dân địa phương đã xây dựng và vận hành thành công tại tỉnh Bến Tre các mô hình sinh kế NN. Các mô hình bắt đầu từ năm 2018, sau những lần kiểm tra, góp ý tư vấn, đặc biệt là đợt đánh giá mô hình vào tháng 10 năm 2020 nhận thấy hoạt động của các mô hình diễn ra là tốt và rất tốt, ngoại trừ mô hình nuôi tôm xen trong mương vườn dừa là không thành công do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng cái được là đúc kết nhiều kinh nghiệm từ mô hình này.
Có thể tìm đọc toàn văn Báo cáo kết quả nghiên cứu (mã số 19920/2021) tại Cục Thông tin khoa học và công nghệ quốc gia.
N.P.D (NASATI)