Nghiên cứu khai thác và phát triển nguồn gen sơn ta tại một số tỉnh trung du và miền núi phía Bắc Việt Nam
Cập nhật vào: Thứ ba - 24/06/2025 00:04
Cỡ chữ
Cây sơn mọc tự nhiên hay trồng ở Việt Nam (Rhus succedanea L.) là một giống sơn độc đáo trên thế giới. Sản phẩm chính được khai thác từ cây sơn là nhựa sơn có giá trị sử dụng trong nhiều lĩnh vực: Sơn quang dầu, sơn gắn, sơn mài, giao thông đường biển, công nghiệp điện, công nghiệp thực hẩm, y học. Tại Việt Nam, cây sơn có phân bố tự nhiên rộng nhưng hiện nay được nhân trồng và khai thác nhựa tại một số tỉnh miền núi phía Bắc: Phú Thọ (2.000 ha), Tuyên Quang (600 ha) và một phần diện tích được phát triển tại Yên Bái, Hà Giang. Một trong những nguyên nhân chính gây ra sự thoái hóa nguồn gen, suy giảm chất lượng và sản lượng nhựa của cây sơn là sử dụng cây trồng bằng hạt. Do vậy, vườn sơn được hình thành có sự phân li rất lớn về kiều hình (sinh trưởng của những cá thể có sự khác biệt lớn). Bên cạnh đó, việc không có kỹ thuật nhân trồng và khai thác nhựa sơn hợp lý dẫn đến vườn sơn có chất lượng kém, năng suất thấp (trung bình 4 tạ/ha/năm) và chu kỳ khai thác nhựa sơn ngắn: trung bình từ 5-7 năm.

Để nâng cao được năng suất nhựa sơn và kéo dài thời gian khai thác thì những hạn chế về kỹ thuật nhân trồng nêu trên cần được khắc phục. Từ những phân tích nêu trên, nhóm nghiên cứu của TS. Nguyễn Hữu La tại Viện Khoa học Kỹ thuật Nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc đã thực hiện đề tài: “Nghiên cứu khai thác và phát triển nguồn gen Sơn ta (Rhus succedanea L.) tại một số tỉnh trung du và miền núi phía Bắc, Việt Nam” trong thời gian từ năm 2017 đến năm 2021.
Mục tiêu của đề tài là khai thác và phát triển được nguồn gen sơn ta có năng suất và chất lượng nhựa cao tại một số tỉnh trung du và miền núi phía Bắc, Việt Nam.
Kết quả phân tích đa dạng di truyền các mẫu sơn thu thập được ở ba xuất xứ có sự đa dạng khá cao: Hệ số tương đồng di truyền 0,41 - 0,98. Nhóm mẫu thu thập được ở Chiêm Hóa có sự khác biệt đáng kể với đa số mẫu thu thập được ở Tam Nông.
Các tác giả đã tuyển chọn được 90 cá thể sơn có năng suất trung bình vượt 20 % so với năng suất trung bình của cây xung quanh. Trong đó 30 cây tuyển chọn tại Chiêm Hóa – Tuyên Quang được công nhận là cây trội và 60 cây tuyển chọn tại Tâm Nông và Thanh Sơn – Phú Thọ được công nhận là cây sơn đầu dòng.
Bên cạnh đó, nhóm nghiên cứu đã xây dựng được 3 ha khảo nghiệm xuất xứ; tỷ lệ sống sau trồng đạt 92,8 - 94,4 %; bước đầu xác định một số dòng vô tính sinh trưởng tốt ở điểm khảo 18 nghiệm đó là: TS 3.18; TS 4.26; TS 4.15; TS 1.19; TN 2.16; TN 2.6; TN 1.15; TN 1.19; CH 4.12; CH 3.25; CH 1.24; CH 3.22.
Kết quả đề tài đã được Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc công nhận 02 quy trình trình kỹ thuật cấp cơ sở: Qui trình 1: Quy trình hướng dẫn kỹ thuật nhân giống bằng phương pháp ghép, trồng thâm canh cây sơn và Quy trình 2: Quy trình hướng dẫn kỹ thuật khai thác, sơ chế và bảo quản nhựa sơn.
Ngoài ra, nhóm nghiên cứu đã xây dựng được 15 ha mô hình trồng cây sơn ghép tại 3 tỉnh Phú Thọ, Hà Giang và Tuyên Quang (5 ha/tỉnh). Tỷ lệ sống trung bình đạt 91,3 – 93,8%. Mô hình sinh trưởng phát triển tốt, ít sâu bệnh. Tỷ lệ cây đủ tiêu chuẩn đưa vào khai thác ở thời điểm 24 tháng đạt 65,3- 68,9 %. Xác định được một số dòng sơn sinh trưởng tốt trên mô hình: TS 3.18, TS 2.30, CH 3.25 và CH 1.24, TN 1.15 và TN 2.25.
Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu có hệ thống về nguồn gen cây sơn tại vùng miền núi phía Bắc mà trọng tâm là tuyển chọn được những cá thể sơn vượt trội về sinh trưởng và năng suất tại các xuất xứ, đánh giá được đặc tính sinh vật học và tính đa dạng di truyền của nguồn gen cây sơn. Kết quả nghiên cứu đã cung cấp cơ sở cho việc hoàn thiện quy trình kỹ thuật nhân giống và thâm canh cây sơn, cũng như quy trình khai thác, sơ chế và bảo quản nhựa sơn; đồng thời cung cấp nguồn tư liệu tham khảo, giảng dạy về cây sơn cho các cơ sở đào tạo.
Có thể tìm đọc toàn văn Báo cáo kết quả nghiên cứu (mã số 20619/2021) tại Cục Thông tin, Thống kê.
N.P.D (NASTIS)
Liên hệ
Tiếng Việt
Tiếng Anh








