Nghiên cứu khung chính sách phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo khu vực dịch vụ: trường hợp ngành tài chính - ngân hàng
Cập nhật vào: Thứ ba - 12/12/2023 00:03
Cỡ chữ
Dịch vụ là lĩnh vực hiện đang chiếm tỷ trọng lớn nhất trong GDP của Việt Nam, dao động trong khoảng 37-42% trong giai đoạn từ năm 2011 tới 2018. Tỷ trọng này thấp hơn đáng kể so với mức đóng góp trung bình của lĩnh vực dịch vụ, khoảng 69% GDP, trên thế giới; thấp hơn so với trung bình của các nhóm các nước có thu nhập trung bình và thu nhập thấp (56,9%); và tỷ trọng này còn thâp hơn nhiều so với mức xấp xỉ 74% của các nước có thu nhập cao (Xem Hình 0.1). Hơn nữa, nếu xét trong cùng thời kỳ 1997-2015, các nước trên thế giới đã có sự dịch chuyển rõ ràng theo hướng tăng lên đối với tỷ trọng đóng của lĩnh vực dịch vụ vào GDP thì với Việt Nam, tỷ trọng này hầu như không có sự thay đổi. Như vậy, nếu theo xu hướng chung, tỷ trọng của lĩnh vực dịch vụ của Việt Nam trong nền kinh tế sẽ có khả năng tiếp tục tăng mạnh trong những năm tới.
Ngành dịch vụ vừa cung cấp đầu vào cho các ngành khác trong nền kinh tế nhưng cũng là ngành đáp ứng trực tiếp nhu cầu của người tiêu dùng. Các ngành dịch vụ hạ tầng cơ sở (tiện ích, bất động sản, vận tải, viễn thông và tài chính) hỗ trợ cho tất cả các loại hình doanh nghiệp; các dịch vụ bán buôn, bán lẻ và logistics giúp phân phối hàng hóa đến mọi ngõ ngách của nền kinh tế; trong khi đó, giáo dục, y tế, ăn uống và lưu trú, và các dịch vụ giải trí đóng góp vào cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân; còn các dịch vụ chuyên môn lại cung cấp các kiến thức và kỹ năng cần thiết cho các doanh nghiệp. Trong số các ngành dịch vụ, số liệu của Tổng cục thống kê năm 2018 cho thấy, các ngành dịch vụ đóng góp vào GDP nhiều nhất là thương mại (10,87% GDP), tài chính-ngân hàng-bảo hiểm (5,33% GDP), kinh doanh bất động sản (4,58%), ăn uống và lưu trú (3,78%).
Mặc dù thị trường dịch vụ của Việt Nam mới được mở cửa ở mức độ vừa phải, nhưng chúng ta đã nhìn thấy sự hiện diện của các nhà đầu tư nước ngoài trong hầu hết các lĩnh vực dịch vụ, từ KFC và McDonald trong lĩnh vực dịch vụ ăn uống cho đến BigC và Lotte trong lĩnh vực bán lẻ, hay HSBC, Standard Chartered, và Shinhan Bank trong lĩnh vực ngân hàng. Chính điều này đã mang đến cho các doanh nghiệp trong nước và người tiêu dùng những trải nghiệm mới, tạo ra động lực buộc các doanh nghiệp trong nước phải đầu tư cho đổi mới sáng tạo.
Trong các ngành dịch vụ, tài chính-ngân hàng là ngành đóng vai trò quan trọng bậc nhất trong sự phát triển của bất cứ quốc gia nào. Đây cũng là lĩnh vực chứng kiến sự áp dụng các tiến bộ công nghệ mạnh mẽ trong thập niên vừa qua để cải thiện khả năng xử lý số liệu, quản trị rủi ro, năng lực thanh toán, cũng như đáp ứng được nhu cầu tài chính đa dạng của khách hàng. Hơn thế, với sự xuất hiện của các công ty công nghệ tài chính - Fintech - cuộc chơi trong lĩnh vực này đã có nhiều sự thay đổi.
Tuy vậy, hiểu biết về đổi mới sáng tạo (ĐMST) trong ngành tài chính-ngân hàng nói riêng và các ngành dịch vụ nói chung tại Việt Nam còn rất hạn chế. Các nghiên cứu gần đây về hoạt động ĐMST trong ngành tài chính-ngân hàng ở Việt Nam bắt đầu xuất hiện kể từ khi việc chuyển đổi sang ngân hàng số cũng như các công ty Fintech xuất hiện. Một trong số đó là Kỷ yếu hội thảo: “Cách mạng công nghiệp 4.0 và những đổi mới trong lĩnh vực tài chính-ngân hàng” do Đại học kinh tế Quốc dân tổ chức vào tháng 6/2018. Nhưng cũng giống như đa phần các nghiên cứu về các khía cạnh phát triển công nghệ trong ngành tài chính-ngân hàng, các nghiên cứu trong tập 3 kỷ yếu này chủ yếu tập trung vào phân tích hiện trạng, xu hướng và tác động của các công nghệ mới mà hầu như không đề cập đến các nhân tố cũng như các tác nhân thúc đẩy hoạt động ĐMST trong ngành. Vì thế, một nghiên cứu về hệ thống ĐMST đối với ngành tài chính-ngân hàng, dựa trên một phương pháp luận mạch lạc, là cần thiết để xây dựng khung chính sách phát triển hệ thống ĐMST trong lĩnh vực này.
Xuất phát từ thực tiễn trên, ThS. Đinh Tuấn Minh cùng nhóm nghiên cứu tại Viện Chiến lược và chính sách KH&CN đã thực hiện “Nghiên cứu khung chính sách phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo khu vực dịch vụ: trường hợp ngành tài chính - ngân hàng” với mục tiêu cung cấp cơ sở khoa học và thực tiễn để từ đó đưa ra định hướng chính sách phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo trong khu vực dịch vụ nói chung và ngành tài chính-ngân hàng nói riêng của Việt Nam. Đổi mới sáng tạo trong ngành ngân hàng, đặc biệt là mảng thanh toán, sẽ được tập trung xem xét cụ thể hơn trong nghiên cứu.
Trong kinh tế học, một dịch vụ thuần túy (pure service) được định nghĩa là một giao dịch giữa bên mua và bên bán mà không có hàng hóa vật chất (physical goods) nào được trao đổi giữa các bên. Dịch vụ liên quan đến mối quan hệ đồng thời giữa bên sản xuất và bên tiêu thụ. Trong lĩnh vực dịch vụ, không thể chỉ có nhà sản xuất mà không xuất hiện bên tiêu thụ. Một dịch vụ, một khi được tạo ra, sẽ buộc phải được tiêu thụ bởi ai đó (Hill, 1977, 1999).
Trên thực tế, có một số dịch vụ không thuần khiết, chẳng hạn dịch vụ ăn uống. Bên cạnh phần đóng góp chính là tạo ra không gian thỏa mái cho khách hàng, thì đồ ăn thức uống là phần vật chất được cung ứng cho khách hàng. Vì lẽ đó, trên thực tế, việc phân loại các lĩnh vực dịch vụ được tiến hành dưới hình thức loại trừ. Tức là lĩnh vực dịch vụ là lĩnh vực còn lại sau khi loại trừ hết các hoạt động kinh tế được xếp vào lĩnh vực nông nghiệp, khai khoáng, và chế biến chế tạo.
Do dịch vụ được sản xuất, phân phối và tiêu thụ diễn ra đồng thời nên việc phân tách giữa ĐMST sản phẩm và ĐMST quy trình trở nên khó khăn. Điều này hàm ý rằng ĐMST dịch vụ tập trung nhiều hơn vào tương tác giữa bên cũng cấp dịch vụ và khách hàng. Với đặc điểm này, những ĐMST mang tính đột phá trong lĩnh vực dịch vụ thường liên quan tới việc tạo ra các mô hình kinh doanh mới, ví dụ như eBay đã giới thiệu cách mua bán hoàn toàn mới thông qua đấu giá trực tuyến hay Google đã khởi đầu cho việc tìm kiếm thông tin trên internet. Còn các ĐMST dịch vụ nhỏ thương liên quan đến việc tạo ra các giá trị lớn hơn cho khách hàng, cải thiện hiệu quả, chi phí chất lượng và độ tin cậy của nhà cung cấp cũng như khách hàng. Ngoài ra, do quy trình và sản phẩm gắn bó mật thiết với nhau trong việc tạo ra dịch vụ nên các loại công nghệ tương tác, mạng lưới đóng vai trò quan trọng trong hoạt động ĐMST dịch vụ (Randhawa và Scerri, 2015).
Sau thời gian, đề tài đã thu được những kết quả như sau:
- Công nghệ đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy cải tiến dịch vụ, đặc biệt là công nghệ thông tin. Tuy nhiên, ngành dịch vụ áp dụng công nghệ chậm hơn so với ngành sản xuất do tính không đồng nhất. Vì thế mà một công nghệ khi áp dụng trong lĩnh vực dịch vụ đều cần điều chỉnh cho phù hợp. Các cơ sở tri thức của dịch vụ rất đa dạng và thay đổi theo thời gian. ĐMST dịch vụ có thể thông qua học hỏi kinh nghiệm và hợp tác; sử dụng kiến thức thu được tiến hành hoạt động R&D.
- Mạng lưới ĐMST dịch vụ trên thế giới ngày càng có tính tương tác cao và mang tính hệ thống. Các tác nhân tham gia vào mạng lưới bao gồm các doanh nghiệp, nhà cung cấp, tổ chức trung gian, khách hàng và đối tác với mục đích đồng sáng tạo dịch vụ. Mạng lưới tương tác nhiều doanh nghiệp mang tới sự cạnh tranh, tạo động lực cho quá trình đổi mới.
- Thể chế là công cụ điều tiết, quản lý hoạt động cũng như rủi ro của các doanh nghiệp trong ngành. Mỗi loại dịch vụ đều có các quy định đặc thù, phù hợp với đặc điểm của loại dịch vụ đó. Thể chế chính thức và không chính thức đều ảnh hưởng tới ĐMST ngành dịch vụ. Ngoài ra, thể chế còn là công cụ liên kết các tổ chức lại với nhau, đặt ra các quy định chung về hợp tác
- Nhu cầu của khách hàng là động lực ĐMST. Trong đó, khách hàng có thể tham gia vào quá trình đổi mới theo ba cách khác nhau: như một nguồn động lực, như một nhà đồng sản xuất và như một người sử dụng dịch vụ.
- Ranh giới của hệ thống đổi mới là không cố định và không trùng với định nghĩa ngành. Đối với các dịch vụ cung cấp tại địa phương, ranh giới địa lý gần như không mang ý nghĩa. Tuy nhiên, ranh giới địa lý trong các ngành dịch vụ vẫn ảnh hưởng tới tất cả các cấu phần khác trong hệ thống ĐMST khi có yếu tố quốc tế, toàn cầu.
Có thể tìm đọc toàn văn báo cáo kết quả nghiên cứu (mã số 18856/2020) tại Cục Thông tin khoa học và công nghệ quốc gia.
Đ.T.V (NASATI)