Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ và gánh nặng chi phí điều trị của viêm não vi rút tại 3 tỉnh Tây Bắc Việt Nam
Cập nhật vào: Thứ năm - 17/04/2025 13:05
Cỡ chữ
Tại Việt Nam, viêm não vi rút (VNVR) là bệnh lưu hành, nằm trong hệ thống giám sát bệnh truyền nhiễm theo quy định của Bộ Y tế, bệnh được ghi nhận tại hầu khắp các tỉnh thành trên toàn quốc, trong đó phổ biến nhất tại khu vực Miền Bắc. Trong khoảng 10 năm trở lại đây, số mắc VNVR trên toàn quốc dao động từ 1.000 - 2.000 ca/năm. Theo kết quả giám sát bệnh VNVR của hệ thống giám sát thường xuyên trong những năm gần đây số mắc VNVR ở khu vực miền Bắc thường tập trung cao ở một số tỉnh miền núi phía Bắc, đặc biệt cao tại 3 tỉnh vùng Tây Bắc bao gồm: Sơn La, Điện Biên, Lào Cai. Liên tục trong khoảng 5 năm trở lại đây, khu vực Tây Bắc luôn là điểm nóng về VNVR. Mặc dù là dịch bệnh nổi trội tại khu vực này trong nhiều năm qua nhưng cho đến nay chưa có nghiên cứu nào đầy đủ để trả lời những câu hỏi về đặc điểm dịch tễ, căn nguyên, véc tơ truyền bệnh cũng như gánh nặng chi phí, v.v.
Chính vì những lý do trên, nhóm nghiên cứu của PGS. TS. Trần Như Dương tại Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương đã thực hiện đề tài: “Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ và gánh nặng chi phí điều trị của Viêm não vi rút tại 3 tỉnh Tây Bắc Việt Nam, 2017-2018” trong thời gian từ năm 2017 đến năm 2021.
Mục tiêu của đề tài là mô tả một số đặc điểm dịch tễ của viêm não vi rút tại 3 tỉnh Tây Bắc: Sơn La, Điện Biên, Lào Cai, 2017-2018; xác định một số tác nhân vi rút phổ biến gây viêm não tại cơ sở y tế ở 3 tỉnh Tây Bắc: Sơn La, Điện Biên, Lào Cai, 2017-2018; xác định sự có mặt của muỗi truyền bệnh viêm não nhật bản (VNNB) tại khu vực nghiên cứu; và mô tả chi phí điều trị trực tiếp liên quan đến y tế của bệnh nhân viêm não vi rút điều trị tại các cơ sở y tế ở 3 tỉnh Tây Bắc: Sơn La, Điện Biên, Lào Cai, 2017-2018.
Đề tài đã thu được các kết quả như sau:
- Đã phát hiện một tỷ lệ dương tính đáng kể tác nhân vi rút ở các bệnh nhân viêm VNVR lâm sàng tại khu vực Tây Bắc (28,5%). Các tác nhân vi rút phổ biến gây viêm não khá đa dạng, bao gồm vi rút VNNB, vi rút đường ruột (VRĐR), vi rút HSV, vi rút Dengue, và vi rút hCMV. Trong đó, vi rút VNNB và VRĐR là 2 tác nhân phổ biến nhất gây viêm não vi rút tại 3 tỉnh Tây Bắc năm 2017-2018, với tỷ lệ dương tính lần lượt là 68,9% và 19,3% tổng số mẫu dương tính, bên cạnh đó ghi nhận 8,9% số mẫu dương tính đồng nhiễm 2 loại vi rút VNNB và VRĐR.
- Tại 3 tỉnh Tây Bắc: Sơn La, Điện Biên và Lào Cai đã thu thập được 8 loài muỗi thuộc 5 giống, trong đó có mặt của hai loài muỗi là véc tơ chính truyền bệnh VNNB: Cx. tritaeniorhynchus và Cx. vishnui với số lượng chiếm ưu thế (68,48%), trong đó số lượng muỗi thu thập được cao nhất tại Điện Biên, tiếp theo là Lào Cai và thấp nhất tại Sơn La. Chỉ số mật độ muỗi Cx. tritaeniorhynchus và Cx. vishnui cao tại chuồng gia súc (3,36 – 21,28 con/chuồng đối với Cx. tritaeniorhynchus, 0,12 – 7,74 con/chuồng đối với Cx. vishnui) cao hơn 19,5 lần (Cx. trtaeniorhynchus) và 11,8 lần (Cx. vishnui) so với chỉ số mật độ muỗi trong nhà ở.
- Chi phí điều trị trực tiếp liên quan đến y tế trung bình của mỗi bệnh nhân mắc VNVR tại 3 tỉnh Tây Bắc: Sơn La, Điện Biên và Lào Cai, giai đoạn 2017 - 2019 tương đối cao (8.010.875 đồng). Trong đó bệnh nhân phải tự chi trả 414.299 đồng, tương đương 5,2% tổng chi phí điều trị, phần còn lại do nhà nước chi trả qua bảo hiểm y tế. Chi phí ở trung vị là 5.844.793 đồng. Hai hạng mục y tế chiếm tỷ trọng lớn trong chi phí điều trị của bệnh nhân bao gồm chi phí thuốc, máu, dịch truyền chiếm cao nhất (3.358.140 đồng, chiếm 41,9%) và chi phí giường bệnh (2.349.215 đồng, chiếm 29,3%). Chi phí điều trị trực tiếp cho y tế có mối liên quan với nhóm tuổi của bệnh nhân và số ngày điều trị bệnh. Theo đó, bệnh nhân tuổi càng cao và số ngày điều trị càng nhiều thì chi phí trực tiếp cho điều trị càng nhiều.
Từ các kết quả nghiên cứu của đề tài, các tác giả đưa ra một số kiến nghị như sau: đẩy mạnh việc tiêm vắc xin VNNB cho cả trẻ em và người lớn trong chương trình tiêm chủng mở rộng cũng như ngoài chương trình tiêm chủng mở rộng; tăng cường tuyên truyền cho người dân về bệnh VNVR và các biện pháp phòng bệnh. Vận động cộng đồng xây dựng chuồng trại gia súc, gia cầm tập trung và xa nhà ở; cần tiếp tục và mở rộng những nghiên cứu về dịch tễ học (nguồn truyền nhiễm của bệnh, yếu tố nguy cơ, …); gánh nặng bệnh tật liên quan tới VNVR để có bức tranh tổng thể và toàn diện hơn.
Có thể tìm đọc toàn văn Báo cáo kết quả nghiên cứu (mã số 20634/2022) tại Cục Thông tin, Thống kê.
N.P.D (NASTIS)