Nghiên cứu thực trạng ô nhiễm một số yếu tố hóa học, sinh học trong môi trường ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng vùng ven biển, hải đảo miền Bắc và đề xuất biện pháp can thiệp
Cập nhật vào: Thứ tư - 23/11/2022 01:00
Cỡ chữ
Việt Nam là một quốc gia ven biển, nằm bên bờ Biển Đông, có đường bờ biển dài 3.260 km từ Móng Cái đến Hà Tiên; có vùng biển và thềm lục địa rộng 1 triệu km2, gấp hơn 3 lần lãnh thổ trên đất liền; với nhiều tài nguyên, khoáng sản quan trọng. Những lợi thế về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và tiềm năng kinh tế của vùng biển nước ta đóng vai trò quan trọng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Với sự đóng góp của các ngành kinh tế biển vào quá trình công nghiệp hóa-hiện đại hóa (CNH - HĐH) đất nước đã đánh dấu một bước phát triển mới của Việt Nam trong công cuộc “tiến ra biển”. Tuy nhiên, đi đôi với sự phát triển về kinh tế biển, ô nhiễm môi trường biển cũng đang trở thành một vấn đề cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Các vụ tràn dầu, rò rỉ các chất độc hại của tàu thuyền quốc tế, các rừng ngập mặn bị tàn phá; nước thải công nghiệp không qua xử lý đổ trực tiếp xuống sông, suối chảy ra biển; thiên tai làm xói mòn bờ biển đã gây thiệt hại không nhỏ đến môi trường biển của Việt Nam.
Khu vực ven biển hải đảo miền Bắc gồm TP. Hải Phòng, tỉnh Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình, Quảng Ninh và Thanh Hóa có bờ biển dài. Nơi đây có nhiều xã nằm bên mép nước lại có nhiều cửa sông lớn, dân cư tập trung cao, hoạt động giao thông trên biển mạnh làm ô nhiễm môi trường biển. Đây là khu vực tập trung các cửa sông lớn như sông Lam, sông Cấm, sông Lạch Tray, sông Trà Lý, sông Ninh Cơ. Những con sông có lưu lượng lớn và có thể gây ô nhiễm cho môi trường ven biển nếu nguồn nước sông bị ô nhiễm.
Những năm gần đây, hoạt động phát triển kinh tế, xã hội và phát triển đô thị diễn ra mạnh mẽ nhờ vào vị thế của khu vực. Trong đó, phát triển về công nghiệp khai thác khoáng sản và vật liệu xây dựng; phát triển cảng biển và hoạt 2 động giao thông vận tải biển; hoạt động khai thác, nuôi trồng hải sản trên biển và vùng ven biển và các hoạt động du lịch... đã đóng góp lớn vào sự phát triển chung của đất nước và của khu vực nhưng đồng thời cũng tạo ra áp lực ngày càng lớn đối với môi trường biển. Các chất ô nhiễm có nguồn gốc từ đất liền thải ra biển của khu vực được đánh giá chiếm 60 - 70% tổng thải lượng chất ô nhiễm. Còn lại là các nguồn từ biển do các hoạt động trực tiếp trên biển như tàu thuyền vận tải, khai thác hải sản, du lịch và các hoạt động của ngư dân, của khách du lịch tham quan trên biển.
Với áp lực ngày càng tăng, một số khu vực trên vùng biển có biểu hiện ô nhiễm và ngày càng gia tăng do chất dinh dưỡng, chất rắn lơ lửng, kim loại nặng, Coliforms và dầu mỡ, đặc biệt tại các khu vực có khai thác khoáng sản (than) và vật liệu xây dựng, khu vực chế biến hải sản, khu nuôi trồng hải sản, khu cảng cá và các cảng vận tải... Nước biển khu vực Di sản Vịnh Hạ Long cũng đã có biểu hiện ô nhiễm do dầu mỡ. Các hệ sinh thái đặc thù trên biển khu vực cũng đã bị suy thoái và suy giảm đa dạng sinh học (rừng ngập mặn, san hô, thảm cỏ biển, bãi ngập triều...) mà nguyên nhân một phần cũng do ô nhiễm biển gây ra. Những rủi ro đối với hệ sinh thái và con người do các chất ô nhiễm trong môi trường biển là hiện hữu, đòi hỏi phải có những nỗ lực trong kiểm soát ô nhiễm môi trường biển, bảo tồn các giá trị tự nhiên của khu vực và đảm bảo phát triển bền vững.
Xuất phát từ thực tiễn trên, Cơ quan chủ trì Trường Đại học Y Dược Hải Phòng cùng phối hợp với Chủ nhiệm đề tài GS.TS. Phạm Văn Thức thực hiện “Nghiên cứu thực trạng ô nhiễm một số yếu tố hóa học, sinh học trong môi trường ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng vùng ven biển, hải đảo miền Bắc và đề xuất biện pháp can thiệp” với mục tiêu: Mô tả thực trạng ô nhiễm một số tác nhân hóa học, sinh học trong môi trường vùng ven biển, hải đảo miền Bắc; Phân tích các yếu tố ảnh hưởng của các tác nhân trên tới sức khỏe cộng đồng vùng ven biển, hải đảo miền Bắc; Đề xuất và thử nghiệm một số biện pháp can thiệp hạn chế tác động của các yếu tố hóa học, sinh học trong môi trường đến sức khỏe cộng đồng vùng ven biển, hải đảo miền Bắc.
Việc kiểm soát ô nhiễm biển hiện nay thường tổ chức thực hiện theo từng địa phương và chưa kết nối các tỉnh với nhau, chưa chú trọng đến kiểm soát ô nhiễm biển nên hiệu quả chưa cao vì ảnh hưởng ô nhiễm trên biển khác hẳn trên đất liền do tính chất lan tỏa, do dòng chảy, gió nên ảnh hưởng rộng, không những chỉ trên khu vực biển của địa phương mà còn lan tỏa sang địa phương khác, khu vực khác, thậm chí là ảnh hưởng đến các quốc gia liền kề như sự cố tràn dầu năm 2007, xả thải nước ballast mang từ vùng này sang vùng khác...
Khu vực cửa sông, ven biển là nơi có mức độ đa dạng sinh học cao cũng như mang lại những nguồn lợi thủy sản lớn cho con người. Tuy nhiên, đây cũng là khu vực có nguy cơ ô nhiễm kim loại nặng cao bởi những đặc điểm thủy động lực học và thường tiếp nhận chất thải từ các hoạt động sinh hoạt và sản xuất của con người. Việc nhiễm kim loại nặng trong sinh vật đã phát hiện tại nhiều khu vựccửa sông, ven biển trên thế giới. Ô nhiễm kim loại trong hải sản đã làm tăng mối lo ngại về sức khỏe cộng đồng, đặc biệt là đối với người dân địa phương sống ở khu vực ven biển.
Hiện nay, ở Việt Nam cũng như trên thế giới, để loại bỏ kim loại nặng ra khỏi nước, thường sử dụng một trong ba phương pháp sau: (i) Hấp thụ trên một số vật liệu vô cơ; (ii) Trao đổi trên nhựa anionit và (iii) Phương pháp kết tủa. Nhược điểm của các phương pháp này là không loại bỏ triệt để các dạng tồn tại ở các hóa trị khác nhau của kim loại nặng. Ví dụ, với các phương pháp này không loại bỏ được triệt để Asen có hóa trị 3 (Asen III) mà chỉ loại bỏ được Asen có hóa trị 5 (Asen V). Thực tế, Asen trong nước ngầm thường tồn tại dạng Asen (III) là chủ yếu. Khi sử dụng ôxy không khí để ôxy hóa Asen (III) lên Asen (V), phản ứng xảy ra rất chậm và không hoàn toàn, một phần là do cạnh tranh của sắt (II) và mangan (II), đây là một trong các nguyên nhân giải thích tại sao nước ngầm ở nhiều nơi sau khi xử lý thành nước sinh hoạt vẫn còn có hàm lượng Asen cao hơn tiêu chuẩn cho phép.
Sau thời gian nghiên cứu, đề tài đã thu được những kết quả như sau:
- Tác nhân hóa học: nước cửa sông Ninh Cơ bị ô nhiễm Pb, As dạng lơ lửng (n=30), trầm tích bị ô nhiễm Cr, Pb, As và Hg (n=36). Nguồn nước sinh hoạt, thực phẩm nuôi trồng bị ô nhiễm Cd và As. Hàm lượng Cadimi trung bình trong nước sinh hoạt cao gấp 36,67 lần (n=230), trong thực phẩm cao gấp 5,578 lần (n=120); hàm lượng Asen trung bình trong nước cao gấp 35 lần và trong thực phẩm cao gấp 5,78 lần giá trị giới hạn cho phép.
- Tác nhân hóa học: nước cửa sông Lam bị ô nhiễm Fe (n=12), trầm tích ô nhiễm As (n=30). Nước sinh hoạt và thực phẩm nuôi trồng bị ô nhiễm Cd, Pb, As. Hàm lượng Pb trung bình trong nước sinh hoạt cao gấp 5 lần; Cd cao gấp 3,3 lần; As cao gấp 5 lần (n=220); Pb trong thực phẩm nuôi trồng cao gấp 1,30 lần; Cd cao gấp 10,0 lần; As cao gấp 3,36 lần GTGH (n=145)
- Tác nhân hóa học: nguồn nước mặt và nước sinh hoạt bị ô nhiễm amoni, Crom và Asen. Có 27% mẫu nước sinh hoạt ô nhiễm Asen, 30% ô nhiễm crom (n=149). Có 38,89% mẫu rau trồng ô nhiễm crom, 57,78% mẫu ô nhiễm Asen (n=90); 35,00% mẫu cá nuôi ô nhiễm Crom, 47,50% mẫu ô nhiễm Asen (n=40).
- Mô hình bệnh khu vực ven biển hải đảo miền Bắc về cơ bản là mô hình bệnh của các nước đang phát triển. Bệnh nhiễm trùng vẫn là phổ biến và chiếm tỷ lệ cao. Các bệnh nhiễm khuẩn trong chương trình TCMR giảm rõ rệt. Các bệnh không nhiễm khuẩn như khối u, bệnh cơ quan tạo máu, bệnh nội tiết chuyển hoá, dị tật bẩm sinh và bất thường NST ngày càng tăng, trong khi các bệnh dinh dưỡng và nhiễm khuẩn giảm dần.
Có thể tìm đọc báo cáo kết quả nghiên cứu (mã số 17691/2020) tại Cục Thông tin khoa học và công nghệ quốc gia.
Đ.T.V (NASATI)