Sản xuất thử nghiệm giống và nuôi thương phẩm nguồn gen cá Măng (Chanos chanos Forsskal 1775)
Cập nhật vào: Thứ hai - 05/05/2025 13:05
Cỡ chữ
Ở Việt Nam, cá Măng phân bố dọc ven biển từ Nghệ An đến Bình Thuận, tập trung nhiểu nhất ở Bình Định và Khánh Hoà, loài này đã được đưa vào Sách Đỏ Việt Nam 2007 với phân hạng sẽ nguy cấp - VU A2d. Cá Măng đẻ nhiều nhưng mức độ tử vong cao ở giai đoạn phôi và cá con, do cường độ đánh bắt cá con rất lớn ở các vùng ven biển trong các đầm phá và tình trạng ô nhiễm ngày càng tăng ở vùng biển gần bờ. Cá Măng là đối tượng nuôi mới, có thể nuôi trong lồng bè, ao đất, đăng quầng và nuôi ghép được với tôm sú, góp phần giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường nước trong vùng nuôi tôm tập trung. Tuy nhiên, nguồn cá Măng giống còn phụ thuộc vào tự nhiên, số lượng hạn chế và không chủ động. Nghiên cứu sản xuất giống cá Măng nhân tạo ở Việt Nam mới chỉ dừng ở quy mô thí nghiệm, sử dụng phương pháp cho sinh sản tự nhiên bằng cách điều chỉnh một số yếu tố môi trường nước.
Hiện nay, các kết quả nghiên cứu trong nước về cá Măng mới chỉ dừng lại ở cung cấp một số dẫn liệu về phân bố, đặc điểm phân loại và sơ lược về đặc điểm hình thái, đặc biệt chưa có nghiên cứu cụ thể nào về đặc điểm sinh học sinh sản, dinh dưỡng và quy trình kỹ thuật sản xuất giống đối tượng này. Bởi vậy, cần có những nghiên cứu toàn diện hơn về đặc điểm sinh học làm cơ sở để xây dựng quy trình sản xuất giống nhân tạo đối tượng này. Để giúp cho nghề nuôi cá Măng phát triển, nhóm nghiên cứu của TS. Tạ Thị Bình tại trường Đại học Vinh chủ trì thực hiện Dự án “Sản xuất thử nghiệm giống và nuôi thương phẩm nguồn gen cá Măng (Chanos chanos Forsskal, 1775)” trong thời gian từ năm 2018 đến năm 2021.
Đề tài nhằm thực hiện mục tiêu hoàn thiện quy trình công nghệ sản xuất giống và nuôi thương phẩm cá măng góp phần bảo tồn nguồn gen, đa dạng hóa đối tượng nuôi và cải thiện chất lượng môi trường nước trong ao nuôi tôm he thương phẩm.
Sau một thời gian nghiên cứu, dự án đã hoàn thiện quy trình sản xuất giống cá Măng với các chỉ tiêu: Tỷ lệ thành thục cá bố mẹ > 60%; Tỷ lệ tham gia sinh sản > 60%; Tỷ lệ trứng thụ tinh > 65%; Tỷ lệ nở > 82%; Tỷ lệ sống từ cá bột lên cá hương > 20%; Tỷ lệ sống từ cá hương lên cá giống (4-6cm) > 80%.
Dự án đã xây dựng được bộ tiêu chuẩn cơ sở cho cá bố mẹ và cá giống cá măng và hoàn thiện quy trình nuôi thương phẩm cá Măng với các chỉ tiêu: Tỷ lệ sỗng > 85%; Thời gian nuôi 7-12 tháng; Kích cỡ cá thương phẩm: 1-1,5 kg. Bên cạnh đó, nhóm nghiên cứu đã hoàn thiện quy trình nuôi ghép cá Măng với tôm thẻ chân trắng với các chỉ tiêu: Tỷ lệ sống cá > 90%; Tỷ lệ sống tôm> 70%; Thời gian nuôi cá 7-12 tháng; Kích cỡ cá thương phẩm:1- 1,5 kg; Thời gian nuôi tôm 3-3,5 tháng; Kích cỡ tôm: 23-25g/con
Dự án đã xây dựng thành công 2 mô hình sản xuất giống cá Măng tại khu vực Nghệ An và Hà Tĩnh đã sản xuất được 334.128 con giống 6-8cm/con, khỏe mạnh, không nhiễm bệnh. Hai mô hình nuôi thương phẩm cá măng trong ao nuôi đơn tại khu vực Nghệ An và Hà Tĩnh đã được xây dựng thành công, đạt tỷ lệ sống > 85%, kích cỡ >1kg/con, sản phẩm mô hình nuôi đơn ở Nghệ An đạt 3697 kg/2500m2; sản phẩm mô hình nuôi đơn ở Hà Tĩnh đạt 5390 kg/4000m2 tương đương năng suất 13.477 và 15.679 kg/ha.
Dự án đã xây dựng thành công 2 mô hình nuôi thương phẩm cá măng trong ao nuôi ghép tại tại Quỳnh Lưu - Nghệ An và Nghi Xuân - Hà Tĩnh đạt tỷ lệ sống cá >90%, tỷ lệ sống tôm >70%, kích cỡ cá >1kg/con, kích cỡ tôm >24 g/con. Sản phẩm mô hình nuôi ghép ở Nghệ An đạt: cá 1521kg/ 2500m2 và tôm 2962kg/ 2500m2. Sản phẩm mô hình nuôi ghép ở Hà Tĩnh đạt: cá 1436 kg/2500m2 và tôm 2962 kg/2500m2.
Có thể tìm đọc toàn văn Báo cáo kết quả nghiên cứu (mã số 20648/2022) tại Cục Thông tin, Thống kê.
N.P.D (NASTIS)