Ứng dụng tiến bộ khoa học và kỹ thuật trong chăn nuôi bò hướng thịt tại các xã khó khăn, dân tộc thiểu số tỉnh Ninh Thuận
Cập nhật vào: Thứ tư - 28/05/2025 13:05
Cỡ chữ
Tỉnh Ninh Thuận đã và đang tích cực triển khai các nghị quyết, quyết định quan trọng nhằm tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng bền vững, hiện đại, nâng cao năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh, đặc biệt trong bối cảnh ứng phó với biến đổi khí hậu và xây dựng nông thôn mới. Các chính sách này tập trung đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao và phát triển các loại vật nuôi có lợi thế của địa phương như bò, dê, cừu. Tỉnh khuyến khích phát triển chăn nuôi nông hộ theo hướng an toàn, hiệu quả, đồng thời thúc đẩy chuyển đổi sang mô hình chăn nuôi trang trại tập trung theo chuỗi giá trị nhằm gia tăng giá trị. Tỉnh tiếp tục đặt mục tiêu nâng cao chất lượng đàn bò, với các kế hoạch cụ thể về cải tạo giống.
Tuy nhiên, thực tế phát triển chăn nuôi bò thịt tại Ninh Thuận vẫn đối mặt với nhiều thách thức. Tình trạng chăn nuôi còn mang tính tự phát ở nhiều nơi, việc nâng cao chất lượng đàn diễn ra chậm và chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển chung. Hệ thống cung cấp giống bò chuyên thịt chất lượng cao còn hạn chế, nguồn lực cho công tác khuyến nông còn mỏng. Phương thức chăn nuôi nhỏ lẻ tại các nông hộ, chủ yếu dựa vào việc tận dụng phụ phẩm nông nghiệp và phối giống tự nhiên, dẫn đến tình trạng đồng huyết và ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng đàn giống. Bên cạnh đó, diện tích đồng cỏ tự nhiên dành cho chăn thả đang có xu hướng giảm do sự phát triển của các dự án khác, gây thiếu hụt nguồn thức ăn, đặc biệt nghiêm trọng trong mùa khô. Việc chế biến và chủ động nguồn thức ăn tại chỗ chưa được người chăn nuôi chú trọng đúng mức.
Trước những tồn tại và khó khăn này, việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật về giống, đẩy mạnh công tác lai tạo, cùng với việc triển khai các giải pháp về dinh dưỡng và thức ăn là hết sức cần thiết và cấp bách. Đây là yếu tố then chốt để nâng cao năng suất, chất lượng thịt bò, đồng thời giúp ngành chăn nuôi thích ứng hiệu quả hơn với những tác động của biến đổi khí hậu.
Mục tiêu xuyên suốt của các dự án và chính sách của tỉnh là ứng dụng thành công khoa học công nghệ vào lĩnh vực chăn nuôi bò thịt nhằm trực tiếp góp phần tăng thu nhập cho người nông dân, nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm chăn nuôi, qua đó thúc đẩy quá trình tái cơ cấu ngành nông nghiệp và đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững, đặc biệt tại các vùng còn khó khăn và khu vực có đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận.
Xuất phát từ nhu cầu cấp thiết về ứng dụng khoa học công nghệ để nâng cao hiệu quả chăn nuôi bò thịt tại các vùng còn nhiều khó khăn của tỉnh Ninh Thuận, đặc biệt là khu vực dân tộc thiểu số, BS. Nguyễn Tin cùng các cộng sự tại Trung tâm Khuyến nông tỉnh Ninh Thuận đã triển khai thực hiện đề tài “Ứng dụng tiến bộ khoa học và kỹ thuật trong chăn nuôi bò hướng thịt tại các xã khó khăn, dân tộc thiểu số tỉnh Ninh Thuận”.
Sau 42 tháng triển khai, dự án đã hoàn thành xuất sắc các mục tiêu đề ra, không chỉ đạt 100% các nội dung kế hoạch mà còn vượt nhiều chỉ tiêu quan trọng. Một trong những thành tựu chính là việc tiếp nhận và ứng dụng thành công 04 quy trình công nghệ tiên tiến vào thực tiễn sản xuất. Đặc biệt, dự án đã xây dựng thành công 03 mô hình trình diễn hiệu quả, không chỉ đạt mà còn vượt các chỉ tiêu kế hoạch đề ra. Cụ thể, mô hình chăn nuôi bò thuần hướng thịt đã ghi nhận tỷ lệ bê sinh ra còn sống đạt 138,1% so với kế hoạch. Đối với mô hình chăn nuôi bò lai hướng thịt, tỷ lệ bê sống từ phối giống trực tiếp đạt 118,5% và từ thụ tinh nhân tạo đạt 130,2% so với kế hoạch, cho thấy hiệu quả rõ rệt của việc ứng dụng các phương pháp phối giống tiên tiến. Về mô hình trồng, chăm sóc, thu hoạch và chế biến cỏ làm thức ăn cho bò, dự án đã trồng thành công 06 ha cỏ theo đúng kế hoạch đề ra, với năng suất vượt trội (cỏ VA-06 đạt 336,5 tấn/ha/năm, cỏ Sả lá lớn đạt 258,5 tấn/ha/năm). Đồng thời, 60 tấn thức ăn ủ chua đảm bảo chất lượng và khả năng bảo quản trên 5 tháng cũng đã được chế biến thành công, giúp nông dân chủ động nguồn thức ăn cho đàn bò. Bên cạnh các hoạt động thực tế, dự án còn chú trọng công tác nâng cao năng lực cho người chăn nuôi thông qua đào tạo và tập huấn, đào tạo chuyên sâu cho 06 kỹ thuật viên nòng cốt về kỹ thuật chăn nuôi bò thịt và chế biến thức ăn, cùng với tổ chức tập huấn cho 200 lượt nông dân, góp phần nâng cao đáng kể kiến thức và kỹ năng chăn nuôi cho cộng đồng địa phương. Nhờ những nỗ lực này, kết quả thực tế cho thấy hiệu quả kinh tế của các hộ nông dân tham gia dự án đã tăng trưởng đáng kể, đạt từ 10% đến 30% so với phương thức chăn nuôi truyền thống.
Dự án mang ý nghĩa thực tiễn to lớn, góp phần trực tiếp vào công cuộc cải tạo chất lượng đàn bò tại Ninh Thuận. Thông qua dự án, người dân đã được tiếp cận và ứng dụng khoa học kỹ thuật, góp phần tăng tỷ lệ bò lai có năng suất, chất lượng cao, từng bước nhân rộng các mô hình chăn nuôi hiệu quả. Thành công này không chỉ mang lại lợi ích kinh tế trực tiếp cho các hộ tham gia mà còn tạo hiệu ứng lan tỏa tích cực, thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp, tăng giá trị gia tăng, nâng cao hiệu quả và thu nhập cho nông dân, đặc biệt là tại các vùng miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn gặp nhiều khó khăn. Việc quản lý và sử dụng nguồn kinh phí của dự án, bao gồm cả kinh phí đối ứng, đã được thực hiện đúng mục đích và đảm bảo tiến độ. Nhìn chung, những kết quả mà dự án đạt được đã đóng góp thiết thực vào mục tiêu nâng cao tỷ lệ Sind hóa đàn bò của tỉnh và góp phần vào cơ cấu kinh tế nông nghiệp chung của Ninh Thuận theo hướng bền vững.
Có thể tìm đọc toàn văn báo cáo kết quả nghiên cứu (mã số 20845/2022) tại Cục Thông tin, Thống kê.
P.T.T (NASTIS)