Xây dựng mô hình liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị thịt lợn bản địa (lợn Mường Khương và lợn Lửng) cho một số tỉnh Trung du và miền núi phía Bắc phục vụ xây dựng nông thôn mới
Cập nhật vào: Thứ hai - 19/05/2025 13:05
Cỡ chữ
Chăn nuôi lợn tại Lào Cai là một ngành kinh tế quan trọng của tỉnh và trong mấy năm gần đây có tốc độ tăng trưởng hàng năm khá cao cả về tổng đàn và sản lượng. Việc nuôi lợn Mường Khương được phân bố khá đều trong các huyện của Lào Cai, tuy nhiên, hai huyện có nhiều lợn đen nhất là Mường Khương (chiếm khoảng 60% tổng đàn) và Bát Xát (chiếm 26% tổng đàn). Tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo có tham gia chăn nuôi lợn đen khá cao chiếm trên 70%, chủ yếu là các hộ người dân tộc Hmông và Dao. Chăn nuôi lợn đen mới phát triển vài năm gần đây do nhu cầu của thị trường tăng cao.
Về chăn nuôi lợn, hiện Phú Thọ là tỉnh có tổng đàn lợn đứng thứ 2 vùng trung du miền núi phía Bắc và đứng thứ 8 so với toàn quốc. Tính đến nay, toàn tỉnh hiện có trên 30 trang trại chăn nuôi lợn với quy mô lớn từ 700 đến trên 1.000 con và trên 3.500 gia trại chăn nuôi lợn. Thời gian qua, một số giống lợn bản địa như lợn lửng đen Phú Thọ 3 được nuôi tại các huyện như: Cẩm Khê, Yên Lập, Thanh Sơn, Tân Sơn, Đoan Hùng, Thanh Thủy, Tân Sơn... theo phương thức thả rông trong khu vực vườn/đồi quanh nhà.
Theo đánh giá của ngành nông nghiệp 02 tỉnh Lào Cai và Phú Thọ, chăn nuôi lợn bản địa nói chung và giống lợn (Mường Khương và lợn Lửng) nói riêng đã thu hút được nhiều hộ nông dân tại các huyện trung du và miền núi tham gia với lý do các giống này có chất lượng thơm, ngon, được thị trường ưa chuộng, bên cạnh đó, đây là giống lợn rất phù hợp với điều kiện khí hậu, địa hình và tập quán chăn nuôi của đồng bào vùng cao. Vì vậy, việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới của dự án làm nâng cao hiệu quả của sản xuất sẽ là động lực to lớn thu hút thêm nhiều hộ nông dân tham gia sản xuất, thu hút thêm lao động, nâng cao đời sống kinh tế, tạo thêm ngành nghề mới (nuôi lợn sinh sản, nuôi lợn thương phẩm,…) cho người nông dân trên địa bàn triển khai dự án. Bên cạnh đó, việc áp dụng các quy trình kỹ thuật chăn nuôi mới sẽ cung cấp kiến thức và kỹ thuật cho người nông dân trong các công đoạn xử lý chất thải chăn nuôi, vệ sinh thú y, phòng trừ dịch bệnh,… là những yếu tố quan trọng góp phần hạn chế ảnh hưởng của môi trường chăn nuôi ảnh hưởng tới sức khỏe con người và môi trường sinh thái.
Sau hơn 10 năm thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia (MTQG) xây dựng nông thôn mới (NTM), bộ mặt nông thôn đã đổi thay đáng kể, đời sống vật chất và tinh thần của dân cư khu vực nông thôn được nâng cao rõ rệt, công tác BVMT đã được quan tâm và có chuyển biến tích cực. Theo Báo cáo tổng quan về kết quả thực hiện Chương trình MTQG xây dựng NTM năm 2020 của Văn phòng điều phối NTM Trung ương, cả nước có 33 huyện và 2.656 xã (29,76%) được công nhận đạt chuẩn NTM.
Tỉnh Lào Cai tính đến 2020 có 35/144 xã đạt chuẩn nông thôn mới (là tỉnh đứng đầu khu vực Tây Bắc về tỷ lệ xã đạt chuẩn nông thôn mới). Số tiêu chí đạt bình quân trên một xã của toàn tỉnh (theo chuẩn mới) đạt 10,02 tiêu chí, tăng 0,76 tiêu chí so với cùng kỳ. Từ việc xây dựng NTM ở Lào Cai, việc đẩy mạnh liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm được mở rộng với nhiều hình thức đa dạng, phù hợp điều kiện sản xuất của từng vùng, từng địa phương. Đến nay, toàn tỉnh đã có 33 doanh nghiệp tham gia liên kết sản xuất; hơn 5.972 ha vùng nguyên liệu có liên kết sản xuất giữa các hợp tác xã, doanh nghiệp với 12.504 hộ nông dân tham gia. Trong đó, liên kết sản xuất chè 3.044 ha; sản xuất dược liệu 302 ha; sản xuất rau, hoa, củ, quả 533 ha, sản xuất tiêu thụ lúa, ngô 1.967 ha... Việc hình thức tổ chức liên kết sản xuất theo chuỗi sản phẩm trong chăn nuôi đã được hình thành và phát triển khá ổn định tại một số hợp tác xã.
Trong bối cảnh đó, Chủ nhiệm đề tài TS. Hoàng Quốc Chính cùng nhóm nghiên cứu tại Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển Khoa học Công nghệ Miền Trung thực hiện dự án “Xây dựng mô hình liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị thịt lợn bản địa (lợn Mường Khương và lợn Lửng) cho một số tỉnh Trung du và miền núi phía Bắc phục vụ xây dựng nông thôn mới” với mục tiêu xây dựng được mô hình liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị thịt lợn (Mường Khương và lợn Lửng) tại một số tỉnh Trung du miền núi phía Bắc.
Sau thời gian nghiên cứu, đề tài đã thu được những kết quả như sau:
- Huyện Mường Khương tỉnh Lào Cai và và huyện Tân Sơn tỉnh Phú Thọ là hai huyện thuần nông có tỷ trọng sản xuất nông nghiệp chiếm gần 100%, trong đó, chăn nuôi chiếm 29,03-31,05% tổng giá trị sản xuất của toàn huyện. Hình thức chăn nuôi chủ yếu là chăn nuôi nông hộ trong các khu dân cư. Các mô hình gia trại, trang trại còn kém phát triển. Trên địa bàn chưa thành lập các mô hình tổ chức nông dân (THT, HTX) để tổ chức và điều phối hoạt động chăn nuôi. Tập quán chăn nuôi lợn Mường Khương của người dân địa phương chủ yếu là nuôi nhốt (69,00%) và nuôi bán chăn thả (25,50%). Trình độ chủ hộ chăn nuôi tại các địa bàn nghiên cứu còn nhiều hạn chế. Hiện trạng có 03 kênh tiêu thụ lợn Lửng và lợn Mường Khương hiện nay là kênh hộ chăn nuôi bán trực tiếp cho người tiêu dùng, kênh người chăn nuôi – thu gom/giết mổ tại địa phương – người tiêu dùng và kênh người chăn nuôi – người thu gom – bán lẻ - người tiêu dùng. Trong đó, kênh thu gom trên địa bàn hoặc từ nơi khác đến mua lợn để đi tiêu thụ tại nơi khác chiếm tỷ trọng cao nhất. Đây cũng là kênh mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất cho người dân trên địa bàn.
- Kết quả nghiên cứu, hoàn thiện và ứng dụng quy trình chăn nuôi và xử lý môi trường chăn nuôi lợn (Mường Khương và Lửng) đã đem lại hiệu quả tích cực cho sản xuất của người nông dân trên địa bàn, thể hiện:
+ Mô hình lợn Lửng sinh sản: Số con cai sữa/ổ đạt 8,47-8,53 con/ổ, khối lượng cai sữa đạt 6,72-6,78 kg/con, số lứa đẻ/nái/năm đạt 1,81 lứa, lợi nhuận chăn nuôi cao hơn 44,8%.
+ Mô hình lợn Mường Khương sinh sản: Số con cai sữa/ổ đạt 8,98-9,05 con/ổ, khối lượng cai sữa đạt 6,65-6,73 kg/con, số lứa đẻ/nái/năm đạt 1,90 lứa, lợi nhuận chăn nuôi cao hơn 26,1%.
+ Mô hình lợn Lửng thương phẩm: Khối lượng xuất chuồng lúc 8 tháng nuôi thịt đạt 63,20-63,23 kg hơi/con. Tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng đạt 4,56 kg/kg. Tỷ lệ thịt xẻ đạt 63,03%, thịt nạc 41,59%, thịt mỡ 34,63%. Lợi nhuận chăn nuôi cao hơn 61%. Sản phẩm thịt có chỉ tiêu vi sinh vật trong ngưỡng cho phép theo quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm.
+ Mô hình lợn Mường Khương thương phẩm: Khối lượng xuất chuồng lúc 9 tháng nuôi thịt đạt 84,34-84,88 kg hơi/con. Tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng đạt 3,81-3,91 kg/kg. Tỷ lệ thịt xẻ đạt 65%, thịt nạc 39%, thịt mỡ 34%. Lợi nhuận chăn nuôi cao hơn 52-54%. Sản phẩm thịt có chỉ tiêu vi sinh vật trong ngưỡng cho phép theo quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm.
- Mô hình chuỗi liên kết giá trị cho sản phẩm lợn (Mường Khương và Lửng) từ 143 sản xuất – giết mổ - tiêu thụ lợn (lợn Mường Khương và lợn Lửng) đảm bảo an toàn thực phẩm và truy xuất nguồn gốc đã phát huy hiệu quả tích cực, đem lại hiệu quả cho người sản xuất, thể hiện: các tác nhân nuôi lợn sinh sản có giá trị gia tăng lợi nhuận 17,67 – 18,78%; tác nhân nuôi lợn thương phẩm tăng 17,68%-19,40%và với các tác nhân thu gom giết mổ và tiêu thụ tương ứng là 16,2 và 17,5%.
Có thể tìm đọc toàn văn báo cáo kết quả nghiên cứu (mã số 20870/2022) tại Cục Thông tin, Thống kê.
Đ.T.V (NASTIS)