Xây dựng mô hình sản xuất mỗi xã một sản phẩm (OCOP) ở một số tỉnh Bắc Trung Bộ
Cập nhật vào: Thứ tư - 14/05/2025 13:04
Cỡ chữ
Nông thôn Việt Nam giữ vị trí sống còn trong sự phát triển bền vững quốc gia, là nơi cư trú của phần lớn dân số và lực lượng lao động. Từ sau Đổi Mới, nông nghiệp đã có đóng góp to lớn vào tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống người dân nông thôn, đảm bảo an ninh lương thực, giảm nghèo và ổn định xã hội. Đảng và Nhà nước luôn ưu tiên nguồn lực cho khu vực này, thể hiện rõ qua Chương trình Mục tiêu Quốc gia về Xây dựng Nông thôn mới (NTM) từ năm 2010. Chương trình NTM đã đạt được những thành tựu đáng kể, thay đổi diện mạo nông thôn, đặc biệt trong cải thiện cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, mục tiêu phát triển kinh tế nông thôn, bao gồm thu nhập và tổ chức sản xuất, vẫn còn nhiều thách thức. Để khắc phục hạn chế này và phát huy tiềm năng địa phương, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) vào năm 2018. Đây được xem là bước đột phá trong tiếp cận phát triển kinh tế nông thôn, học hỏi kinh nghiệm từ Nhật Bản và các quốc gia khác.
Mục tiêu của OCOP là phát triển các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh (ưu tiên HTX, doanh nghiệp nhỏ và vừa) để tạo ra các sản phẩm truyền thống, dịch vụ có lợi thế cạnh tranh, đạt tiêu chuẩn trong nước và quốc tế, góp phần phát triển kinh tế nông thôn. Chương trình hướng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao thu nhập và đời sống người dân, thực hiện hiệu quả tiêu chí kinh tế và tổ chức sản xuất trong xây dựng NTM. Đồng thời, OCOP góp phần công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, thúc đẩy chuyển dịch lao động hợp lý, bảo vệ môi trường và bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống. Với phạm vi triển khai trên cả nước, mỗi địa phương cần linh hoạt áp dụng lý luận và kinh nghiệm để phát huy tối đa lợi thế.
Khu vực Bắc Trung bộ, dù đạt kết quả cao trong xây dựng NTM, nhưng phát triển kinh tế nông thôn còn hạn chế, thu nhập và sinh kế người dân chưa tương xứng tiềm năng. Thu nhập bình quân đầu người thấp hơn mức bình quân chung nông thôn cả nước, dẫn đến tỷ lệ di cư cao. Tuy nhiên, vùng đất này sở hữu tiềm năng lớn về sản phẩm nông nghiệp (cam, bưởi, chè, lạc, thủy hải sản…), tiểu thủ công nghiệp (mộc, mây tre đan…) và sản phẩm chế biến (nước mắm, mắm tôm…), tạo động lực cho phát triển kinh tế xã hội và xây dựng NTM bền vững.
Thực tế cho thấy, sự phát triển sản phẩm của khu vực còn gặp nhiều khó khăn như tổ chức sản xuất nhỏ lẻ, liên kết yếu, quản lý chất lượng chưa cao, ứng dụng khoa học kỹ thuật chưa đồng bộ, và thiếu chú trọng đến nhu cầu thị trường, quảng bá thương hiệu. Các chương trình, dự án hiện tại thường tập trung giải quyết vấn đề cục bộ, thiếu chính sách phát triển cấp vùng và liên vùng, cũng như phát triển chuỗi giá trị tổng thể.
Chương trình OCOP mở ra cơ hội lớn cho Bắc Trung bộ tạo đột phá trong phát triển kinh tế nông thôn, tận dụng lợi thế về sản vật, con người, văn hóa và vị trí địa lý. Điều này sẽ đóng góp tích cực vào kết quả xây dựng NTM và nâng cao đời sống người dân. Tuy nhiên, là một chương trình mới, OCOP đòi hỏi kỹ năng, kiến thức và nhận thức phù hợp, gây ra một số khó khăn ban đầu cho chính quyền địa phương trong triển khai và nhân rộng.
Trước tình hình đó và theo đề nghị của các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, ThS. Lê Trường Giang cùng các cộng sự tại Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã thực hiện dự án: “Xây dựng mô hình sản xuất mỗi xã một sản phẩm (OCOP) ở một số tỉnh Bắc Trung bộ” được triển khai. Mục tiêu là xây dựng các mô hình OCOP điển hình, làm cơ sở nhân rộng cho các tỉnh trong vùng dự án, đồng thời tổng hợp kinh nghiệm để triển khai rộng rãi trên toàn khu vực Bắc Trung bộ và cả nước.
Mô hình sản xuất OCOP đại diện cho mỗi tỉnh góp phần phát triển các sản phẩm đặc trưng, bảo tồn giá trị của các ngành nghề truyền thống và có lợi thế của địa phương, thúc đẩy phát triển sản xuất liên kết theo chuỗi giá trị, gắn sản xuất với chế biến tiêu thụ nông sản; tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho người dân, góp phần xây dựng nông thôn mới bền vững. Sau hai năm thực hiện (2019-2020), dự án đã góp phần tăng cường năng lực cho các chủ thể sản xuất, mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và thúc đẩy quảng bá sản phẩm OCOP.
Minh chứng rõ ràng là 04 sản phẩm (nấm linh chi Tuấn Linh, nước mắm Vạn Phần, cam Thượng Lộc, nhung hươu Quang Diệm) đã được công nhận đạt tiêu chuẩn OCOP 4 sao cấp tỉnh, và 04 sản phẩm khác đạt tiêu chuẩn OCOP 3 sao. Đối với các sản phẩm chưa kịp đánh giá hoặc mới ở cấp huyện (cam Nghi Diên, rau Tượng Sơn, gà Thái Thủy, nước mắm Thạch Kim), dự án đã tạo ra những chuyển biến tích cực trong tổ chức sản xuất, quản lý chất lượng và xúc tiến thương mại.
Trước khi tham gia dự án, các chủ thể sản xuất thường là tổ hợp tác hoặc hộ gia đình, thiếu nhiều điều kiện để tham gia OCOP như đăng ký kinh doanh, chứng nhận an toàn thực phẩm, công bố chất lượng, trang thiết bị chế biến, đóng gói và các hoạt động quảng bá, liên kết thị trường. Đến nay, thông qua các hoạt động hỗ trợ của dự án, các chủ thể đã được hỗ trợ xây dựng phương án kinh doanh, nâng cấp tổ chức sản xuất (thành lập HTX), đầu tư trang thiết bị, nâng cao tiêu chuẩn chất lượng, xây dựng công cụ quảng bá và thiết lập kênh phân phối đến các thị trường lớn. Dự án cũng nhận được sự quan tâm của chính quyền địa phương trong việc hỗ trợ nâng cấp sản phẩm theo tiêu chí OCOP. Với những cải thiện đáng kể, các chủ thể còn lại đang chuẩn bị hồ sơ đánh giá OCOP cấp huyện và tỉnh trong năm 2021.
Các kết quả cụ thể của dự án bao gồm:
- Hoàn thiện 12 nghiên cứu đánh giá hiện trạng sản xuất và thị trường cho các sản phẩm tham gia.
- Sản xuất và phát sóng phóng sự truyền hình giới thiệu sản phẩm OCOP của 3 tỉnh.
Biên tập và phát sóng 12 bản tin phát thanh tuyên truyền về chương trình OCOP.
- Xây dựng 12 bộ công cụ truyền thông (sổ tay, tờ rơi, poster, stander) giới thiệu về OCOP và sản phẩm.
- Củng cố, nâng cấp tổ chức sản xuất cho 12 sản phẩm (thành lập HTX, xây dựng phương án kinh doanh, hoàn thiện hồ sơ OCOP).
- Xây dựng thành công 12 mô hình kỹ thuật, giúp tăng năng suất trên 10% và thu nhập trên 30%.
- Tổ chức 24 lớp tập huấn về xây dựng kế hoạch kinh doanh cho 720 người và tập huấn triển khai kế hoạch cho trên 1760 lượt người.
- Tổ chức thành công các hội nghị cung cấp thông tin và báo cáo kết quả dự án.
- Tổng hợp cơ sở lý luận, thực tiễn và bài học kinh nghiệm về triển khai OCOP, từ đó đề xuất chính sách cho khu vực Bắc Trung bộ và Chương trình OCOP quốc gia (đã gửi 01 bản kiến nghị chính sách).
Bên cạnh các kết quả đạt được, do giới hạn về thời gian và tính mới của chương trình OCOP, dự án vẫn còn một số hạn chế: một số sản phẩm chưa được công nhận OCOP chính thức do thời gian củng cố kéo dài; việc thử nghiệm thị trường mới còn nhỏ lẻ, chưa tạo dựng được kênh tiêu thụ vững chắc; và tiềm năng phi vật chất của sản phẩm (văn hóa, lịch sử) chưa được khai thác tối đa để gia tăng giá trị.
Có thể tìm đọc toàn văn báo cáo kết quả nghiên cứu (mã số 20819/2022) tại Cục Thông tin, Thống kê.
P.T.T (NASTIS)