Xây dựng phương pháp phát hiện một số dược chất nhóm giảm đau, chống viêm, hạ glucose máu, ức chế PDE-5 trộn lẫn trong một số chế phẩm đông dược bằng HPTLC và LC-MS/MS
Cập nhật vào: Thứ tư - 10/11/2021 03:43
Cỡ chữ
Theo Tổ chức Y tế Thế giới có đến 80% người dân ở các nước đang phát triển sử dụng thường xuyên các thuốc thảo dược trong chăm sóc sức khỏe. Ưu điểm của các chế phẩm này là hầu hết các vị thuốc trong y học cổ truyền đã được sử dụng lâu đời, không gây độc hại cho cơ thể và không xuất hiện hiện tượng kháng thuốc; không chỉ chữa bệnh mà còn giúp cân bằng âm dương, thay đổi cơ địa. Do vậy, doanh thu từ các chế phẩm đông dược ở châu Âu lên đến hơn 3,7 tỷ Euro hàng năm. Nhằm hấp dẫn khách hàng và gia tăng lợi nhuận, một số nhà sản xuất và cơ sở khám chữa bệnh tư nhân đã trộn trái phép một số hoạt chất hóa dược có tác dụng tương đồng với chỉ định vào từng loại chế phẩm đông dược. Điển hình các nhóm thuốc hóa dược thường được trộn trái phép là nhóm thuốc giảm glucose máu, thuốc chống viêm nhóm glucocorticoid, thuốc giảm đau, chống viêm không steroid, thuốc hạ huyết áp, thuốc giảm béo, thuốc ức chế phosphodiesterase-5… chiếm tỷ lệ cao nhất là nhóm thuốc giảm đau chống viêm. Các trường hợp phát hiện tập trung phần lớn ở Trung Quốc, Singapo, Ấn Độ… Khi người bệnh sử dụng chế phẩm đông dược có trộn lẫn tân dược nhóm giảm đau chống viêm, sẽ bị xuất huyết dạ dày, hội chứng cushing… với nhóm giảm glucose máu, sẽ bị nhiễm toan lactic, tổn thương gan thận... với nhóm ức chế PDE-5, sẽ bị đột ngột mất thị lực nghiêm trọng, mất thính giác, khó thở, dương vật cương cứng, đau đớn kéo dài hơn 4 giờ.
Việc trộn hoạt chất hóa dược vào chế phẩm đông dược là bất hợp pháp, gian lận thương mại, ngụy tạo tác dụng của chế phẩm đông dược nhằm tạo ra tác dụng nhanh và rõ rệt. Hậu quả là gây ra nhiều trường hợp biến chứng nghiêm trọng do không kiểm soát được liều lượng và thời gian tác dụng thuốc. Do đó, yêu cầu phát hiện hóa dược trong chế phẩm đông dược hiện nay là phát hiện nhanh ở hàm lượng hóa dược thấp và áp dụng được trên số lượng mẫu lớn và đa dạng, tích cực phát huy các hệ thống máy hiện đại như LC-MS.
Hiện nay, việc phát hiện các tân dược trộn trái phép vào các sản phẩm đông dược tại Việt Nam chủ yếu tập trung vào phương pháp sắc ký lỏng hiệu năng cao (HPLC) [một số nghiên cứu sàng lọc, phát hiện nhanh bằng sắc ký lớp mỏng (TLC); khẳng định bằng sắc ký lỏng khối phổ (LC-MS). Như vậy, cần phát triển các nghiên cứu sử dụng phương pháp sắc ký lớp mỏng hiệu năng cao (HPTLC) và sắc ký lỏng hai lần khối phổ (LC-MS/MS) cho kết quả chính xác trên các nhóm giảm đau, chống viêm, giảm glucose máu, ức chế PDE-5 trộn trái phép trong nền mẫu đông dược có tác dụng điều trị hoặc hỗ trợ điều trị bệnh lý cơ xương khớp, bệnh đái tháo đường và bệnh lý liệt dương để kiểm tra, giám sát chất lượng chế phẩm đông dược lưu hành trên thị trường.
Từ các thực tế và lý do trên, nhóm nghiên cứu do Cơ quan chủ trì: Trường Đại học Dược Hà Nội cùng phối hợp với Chủ nhiệm đề tài PGS.TS. Nguyễn Thị Kiều Anh để thực hiện nghiên cứu “Xây dựng phương pháp phát hiện một số dược chất nhóm giảm đau, chống viêm, hạ glucose máu, ức chế PDE-5 trộn lẫn trong một số chế phẩm đông dược bằng HPTLC và LC-MS/MS” được tiến hành với các mục tiêu sau:
- Xây dựng được 4 quy trình định tính, định lượng đồng thời 3-5 dược chất trong mỗi nhóm của 4 nhóm thuốc:
1) giảm đau, chống viêm steroid (dexamethason acetat, betamethason, prednison, prednisolon, hydrocortison acetat);
2) giảm đau, chống viêm không steroid (paracetamol, piroxicam, indomethacin, ketoprofen);
3) hạ glucose máu (glibenclamid, gliclazid, glimepririd, glipizid);
4) ức chế PDE-5 (sildenafil citrat, tadalafil, vardenafil) trộn trong chế phẩm đông dược bằng HPTLC.
- Xây dựng được 4 quy trình định tính, định lượng đồng thời 3-5 dược chất trong mỗi nhóm của 4 nhóm thuốc:
1) giảm đau, chống viêm steroid (dexamethason acetat, betamethason, prednison, prednisolon, hydrocortison acetat);
2) giảm đau, chống viêm không steroid (paracetamol, piroxicam, indomethacin, ketoprofen);
3) hạ glucose máu (glibenclamid, gliclazid, glimepririd, glipizid);
4) ức chế PDE-5 (sildenafil citrat, tadalafil, vardenafil) trộn trong chế phẩm đông dược bằng LC-MS/MS.
- Áp dụng các phương pháp đã xây dựng để điều tra sơ bộ thực trạng trộn lẫn các nhóm dược chất trên trong các chế phẩm đông dược.
Từ những kết quả thu được đề tài đã rút ra một số kết luận sau:
1) Đã xây dựng được thành phần công thức và bào chế được 9 nền mẫu chế phẩm đông dược sử dụng trong xây dựng và thẩm định phương pháp phân tích. Các nền mẫu được bào chế dưới dạng viên nén, viên nang cứng, bột, viên hoàn và cao.
2) Đã xây dựng và thẩm định được 4 qui trình định tính, định lượng đồng thời các thuốc hóa dược nhóm chống viêm steroid (5 dược chất), nhóm giảm đau, chống viêm phi steroid (4 chất), nhóm hạ glucose máu (4 chất) và nhóm ức chế PDE-5 (3 chất) trộn lẫn trong chế phẩm đông dược bằng HPTLC. Phương pháp được thực hiện với kỹ thuật xử lý mẫu đơn giản, dung môi chiết dễ kiếm, điều kiện sắc ký phổ biến. Phương pháp có tính đảm bảo tính chọn lọc, khoảng tuyến tính, độ thu hồi, độ chính theo yêu cầu của AOAC 2016. Các quy trình trên được thẩm định độc lập tại phòng thí nghiệm đạt chuẩn mực ISO IEC 17025. Kết quả đều đáp ứng đạt theo yêu cầu của AOAC 2016 và tương đồng với kết quả của nhóm nghiên cứu.
3) Đã xây dựng và thẩm định được 4 qui trình định tính, định lượng đồng thời các thuốc hóa dược nhóm chống viêm steroid (5 dược chất), nhóm giảm đau, chống viêm phi steroid (4 chất), nhóm hạ glucose máu (4 chất) và nhóm ức chế PDE-5 (3 chất) trộn lẫn trong chế phẩm đông dược bằng LC-MS/MS. Phương pháp được thực hiện với kỹ thuật xử lý mẫu đơn giản, dung môi chiết dễ kiếm, thời gian phân tích ngắn. Phương pháp có tính chọn lọc cao, độ thu hồi, độ chính xác đảm bảo, độ nhạy cao đạt yêu cầu của AOAC 2016. Các quy trình trên được thẩm định độc lập tại phòng thí nghiệm đạt chuẩn mực ISO IEC 17025. Kết quả đều đáp ứng đạt theo yêu cầu của AOAC 2016 và tương đồng với kết quả của nhóm nghiên cứu.
4) Đã phân tích được 184 mẫu chế phẩm đông dược thu thập trên thị trường dùng điều trị hoặc hỗ trợ điều trị bệnh cơ xương, khớp; tiểu đường, yếu sinh lý ở nam giới bằng HPTLC và LC-MS/MS. Trong đó, phát hiện 11/119 mẫu có trộn trái phép các dược chất nhóm steroid và phi steroid gồm dexamethason, paracetamol, indomethacin; 8/41 mẫu trộn dược chất hạ đường huyết nhóm sulfunylure chỉ glibenclamid và 6/24 mẫu trộn dược chất nhóm ức chế PDE-5 gồm sildenafil, tadalafil, vardenafil. Do đó, cần phải tăng cường quản lý và kiểm tra chất lượng đối với các chế phẩm đông dược lưu hành trên thị trường về các thuốc hóa dược trộn trái phép để đảm bảo an toàn cho người sử dụng.
Có thể tìm đọc báo cáo kết quả nghiên cứu (mã số 16771/2019) tại Cục Thông tin KH&CN Quốc gia.
Đ.T.V (NASATI)