Ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ để bảo quản di sản mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm và chùa Bổ Đà tỉnh Bắc Giang
Cập nhật vào: Thứ ba - 08/01/2019 12:31 Cỡ chữ
Mộc bản (bản khắc gỗ) dùng để in ấn đã có từ rất sớm ở nhiều quốc gia châu Á. Những mảnh vỡ của mộc bản dùng để in ấn sớm nhất được tìm thấy tại Trung Quốc ở thời kỳ nhà Hán (năm 220 sau công nguyên). Quá trình phát triển, sử dụng Mộc bản để in ấn trên thế giới có mối quan hệ mật thiết với sự phát triển của Phật giáo. Hiện nay, Mộc bản thường được lưu giữ tại các viện bảo tàng, nhà xuất bản, chùa chiền và được xếp trong danh mục các loại sách cổ cần thiết phải được bảo tồn một cách đặc biệt. Với mỗi quốc gia, do điều kiện tự nhiên, lịch sử khác nhau cũng như việc quan tâm và ý thức của con người mà việc lưu giữ, bảo quản Mộc bản cũng khác nhau.
Ở Việt Nam, tỉnh Bắc Giang là một trong những trung tâm của Phật giáo Kinh Bắc nổi tiếng thời kỳ Đại Việt, đặc biệt là ở thời đại nhà Trần. Sự tồn tại và phát triển Phật giáo ở Bắc Giang đã lưu dấu rất nhiều di sản đáng quý, tiêu biểu nhất là chùa Vĩnh Nghiêm (xã Trí Yên, huyện Yên Dũng) và chùa Bổ Đà (xã Tiên Sơn, huyện Việt Yên). Đây là hai trung tâm Phật giáo lớn ở tỉnh Bắc Giang, cũng là hai trong số những ngôi chùa cổ xưa tồn tại cho đến ngày nay.
Tại hai chùa còn lưu giữ được số lượng mộc bản kinh phật rất có giá trị về Phật giáo và về văn hóa thành văn. Kho mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm hiện còn lưu giữ được 3.050 bản khắc từ thời vua Lê Cảnh Hưng (thế kỷ XVIII) đến thời vua Thành Thái triều Nguyễn (thế kỷ XIX) (Kỷ yếu hội thảo khoa học, 2011) và đã được UNESCO công nhận là Di sản Ký ức thế giới khu vực châu Á-Thái Bình Dương năm 2012. Kho mộc bản chùa Bổ Đà hiện còn lưu giữ được 1.935 bản khắc. Khối mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm, chùa Bổ Đà với những giá trị độc đáo về văn hóa vật thể và phi vật thể không chỉ là tài sản vô giá của dân tộc mà còn là di sản văn hóa thế giới. Vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa này để tạo sự kết nối giữa truyền thống - hiện tại - tương lai, mở rộng giao lưu văn hóa là nhiệm vụ quan trọng cần phải tiến hành một cách đồng bộ. Để góp phần bảo tồn và phát huy giá trị của bộ mộc bản quý giá này, hoạt động nghiên cứu và ứng dụng các giải pháp kỹ thuật bảo quản phù hợp với hiện trạng từng bộ mộc bản và điều kiện lưu giữ tại chùa được đặt ra rất cấp thiết. Việc nghiên cứu và ứng dụng các giải pháp bảo quản Mộc bản sẽ tuân theo các nguyên tắc đã được cơ quan quản lý Văn hóa đề ra trong bảo quản, tu bổ các hiện vật gỗ ở di tích.
Với những yêu cầu bức thiết đó từ thực tiễn, đề tài nghiên cứu “Ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ để bảo quản di sản Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm và chùa Bổ Đà tỉnh Bắc Giang” đã được giao cho Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam chủ trì, phối hợp với Công ty cổ phần Tu bổ di tích và kiến trúc cảnh quan thực hiện; Đề tài thuộc Đề án “Bảo tồn, phát huy giá trị di sản Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm và chùa Bổ Đà, tỉnh Bắc Giang”. PGS. TS. Nguyễn Thị Bích Ngọc và các cộng sự chính là các cán bộ nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Công nghiệp rừng- thuộc Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam và Công ty cổ phần Tu bổ di tích và kiến trúc cảnh quan.
Mục tiêu của đề tài là xây dựng mô hình bảo quản di sản Mộc bản kết hợp giữa phương pháp bảo quản truyền thống và ứng dụng khoa học và công nghệ hiện đại để giữ gìn lâu dài di sản quý giá tại chùa Vĩnh Nghiêm và chùa Bổ Đà.
Sau một thời gian nghiên cứu, đề tài đã thu được một số kết quả khả quan như sau:
1. Đề tài đã hoàn thành các nghiên cứu xác định hiện trạng chất lượng bảo quản mộc bản tại chùa Vĩnh Nghiêm và chùa Bổ Đà với các kết quả chính sau đây:
1.1. Mộc bản tại hai chùa hiện đang được lưu giữ cẩn thận, trong các nhà kho tạm, có phương án kiểm soát các yếu tố gây hại đến mộc bản. Các nhà kho tạm có diện tích hẹp, kiến trúc và vật liệu xây dựng chưa đáp ứng được yêu cầu tạo môi trường tiểu khí hậu phù hợp để bảo quản mộc bản.
1.2. Hiện trạng ngoại quan của mộc bản được đánh giá:
- Về kích thước: Mộc bản tại hai chùa phần lớn có chiều dài từ 330 mm đến 360mm, chiều rộng từ 170 mm đến 210mm, chiều dày từ 18 mm đến 24mm.
Tuy nhiên, kích thước phổ biến của các mộc bản ở 2 chùa không giống nhau. Còn có một số bộ kinh sách cá biệt được chế tác với thông số kích thước khác hẳn với kích thước phổ biến.
- Mộc bản có nhiều khuyết tật như cong, nứt, mất chữ, nấm hại... Chỉ có khoảng 3% mộc bản giữ được trạng thái phẳng, còn lại bị cong lòng máng, cong mặt, hoặc cong theo cả hai dạng ở các mức độ khác nhau; tỷ lệ mộc bản bị nứt chiếm tới 80,1%; có 49,2% bị mất chữ hoặc hư hại phần chữ khắc ở mức độ có thể ảnh hưởng đến độ chính xác của việc in ấn bằng mộc bản.
- Nấm mốc là đối tượng sinh vật gây hại phổ biến nhất trên mộc bản hiện nay tại hai chùa. Chỉ có 8,2% số mộc bản hoàn toàn không phát hiện thấy nấm mốc trên bề mặt. Đáng chú ý, gần như tất cả các mẫu mộc bản của chùa Bổ Đà đều phát hiện thấy nấm mốc. Số lượng mộc bản bị mối mọt và nấm mục gây hại ít, chỉ có khoảng 4% số mộc bản có vết mối, mọt xâm hại.
1.3. Đã xác định được thành phần loài nấm gây hại trên mộc bản
- Tại chùa Vĩnh Nghiêm: đã thu thập được 95 chủng nấm, định loại được 17 loài nấm, phổ biến nhất là loài Aspergillus versicolor và loài Paracremonium contagium với tỷ lệ bắt gặp là 12,6%; tiếp theo là loài Aspergillus flavipes và vi Penicillium sp. với tỷ lệ bắt gặp là 11,6%; tiếp đến là Cladosporium tenuissimum 10,5% và Syncephalastrum racemosum 9,5%.
- Tại chùa Bổ Đà: đã thu thập được 107 chủng nấm, định loại được 24 loài nấm, phổ biến nhất là loài Aspergillus versicolor và loài Aspergillus flavipes với tỷ lệ bắt gặp là 14,95%; tiếp theo là loài Leptosphaeria maculans với tỷ lệ bắt gặp là 13,08%; Paracremonium contagium 6,54%; Ceriporia lacerata và Aspergillus sp. đều là 5,61%.
- Các loài nấm mốc hại mộc bản thuộc 3 ngành nấm Zygomycota, Ascomycota và Deutermycota. Các loài nấm mốc hại Mộc bản ở chủ yếu thuộc ngành nấm bất toàn (Deutermycota), trong đó chi Aspergillus là phổ biến nhất với 4 loài gây hại ở chùa Vĩnh nghiêm và 6 loài gây hại ở chùa Bổ Đà.
2. Các thông số cơ bản của chất liệu gỗ làm mộc bản của chùa Vĩnh Nghiêm và Bổ Đà đã được xác định:
2.1. Gỗ làm mộc bản tại hai chùa đều là gỗ Thị Diospyros decandra Lour. thuộc chi thực vật Thị (Diospyros), họ thực vật Thị (Ebenaceae).
2.2. Gỗ Thị có khối lượng riêng cao, thớ gỗ mịn, các tính chất vật lý và cơ học ở mức trung bình đến cao phù hợp để sử dụng làm Mộc bản và đồ gỗ mỹ nghệ. Gỗ Thị có hệ số co rút thể tích trung bình, điểm bão hòa thớ gỗ thấp, tỷ lệ giãn nở và co rút gỗ theo chiều tiếp tuyến so với chiều xuyên tâm cao nên gỗ dễ bị nứt trong quá trình gia công và sử dụng.
2.3. Gỗ Thị được xác định có độ bền tự nhiên trung bình và ở mức tiệm cận gần với ngưỡng có độ bền tốt với nấm mục, côn trùng, song gỗ Thị lại có độ bền tự nhiên kém với nấm mốc.
3. Đã nghiên cứu đề xuất giải pháp bảo quản kết hợp truyền thống với hiện đại để giữ gìn phát huy giá trị mộc bản:
3.1. Đã tổng hợp thông tin về các giải pháp bảo quản mộc bản truyền thống và hiện đại có thể áp dụng để bảo quản mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm và chùa Bổ Đà. Đề xuất được tiêu chí bảo quản mộc bản trên quan điểm mộc bản chùa Vĩnh nghiêm và cùa Bổ Đà là di sản Quốc gia.
3.2. Đã xác định thông số môi trường lưu giữ mộc bản phù hợp gồm: Nhiệt độ: 20 - 25 độ C; độ ẩm tương đối: 65- 75%; độ chiếu không vượt quá 50 lux; hạn chế tối đa sự bức xạ tia cực tím; không khí sạch được lưu thông.
3.2. Gỗ Thị khi xử lý bảo quản bằng một số giải pháp truyền thống (luộc gỗ, ngâm gỗ trong nước vôi) không cải thiện độc khả năng phòng chống nấm mốc. Thuốc bảo quản KAA Antiblu 50SC khi xử lý bảo quản gỗ Thị bằng phương pháp nhúng trong 60s có hiệu lực tốt chống nấm mốc.
3.3. Giải pháp quản lý tổng hợp sinh vật hại mộc bản IPM cho cả hai chùa được đề xuất kết hợp với giải pháp về kiến trúc về nhà kho lưu giữ mộc bản để tạo được môi trường phù hợp hạn chế sự phát triển của sinh vật hại đồng thời kiểm soát chủ động các yếu tố sinh vật và phi sinh vật gây hại tới mộc bản.
4. Đã nghiên cứu cơ sở khoa học cho phương án xây dựng kho bảo quản mộc bản tại chỗ của chùa Vĩnh Nghiêm và chùa Bổ Đà.
4.1. Hai nhà kho chủ yếu lưu giữ mộc bản tại hai chùa hiện nay chưa đảm bảo tạo được môi trường tiểu khí hậu cho bảo quản mộc bản, đồng thời chưa có không gian trưng bày phục vụ nghiên cứu, tham quan, du lịch trải nghiệm.
4.2.Tổng hợp cơ sở về kiến trúc, vật liệu xây dựng chùa Việt Nam và những yêu cầu về kiến trúc nhà kho bảo quản mộc bản, đề tài đã đề xuất phương án bố trí không gian lưu giữ, trưng bày, trải nghiệm với mộc bản phù hợp với điều kiện thực tế của mỗi chùa.
4.3. Đã đề xuất được sơ đồ bố trí vị trí xây dựng nhà kho lưu giữ mộc bản phù hợp quy hoạch chung của mỗi chùa:
- Tại chùa Vĩnh Nghiêm: thống nhất với phương án hiện nay nhà chùa đang xây dựng kho.
- Tại chùa Bổ Đà: có 02 phương án:
+ Phương án 1: vị trí nhà kho được đề xuất phía trước nhà Tam bảo, bên tả và sau Tam quan kiêm gác chuông; dự kiến sẽ xây dựng trên trục chính, trước Tam bảo. Hướng công trình cùng hướng Tam bảo và Tam quan.
+ Phương án 2: vị trí nhà kho được đề xuất phía Hữu chùa, cạnh lối vào phía bên chùa. Hướng công trình cùng hướng Tam bảo. Đây là khu vực nằm ngoài tường trình đất của khu vực nhà chùa. Vì vậy, được xây dựng thêm cổng và tường rào bao quanh.
4.4. Mô hình kiến trúc nhà kho bảo quản mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm có phương án thiết kế hình chữ “CÔNG”, gồm 3 tòa:
+ Tòa ngoài một tầng mái, tường hai đầu thu hồi bít đốc là kiểu kiến trúc truyền thống. Kết cấu nhà vì tam giác, kẻ ngồi và bẩy, cột 4 hàng chân, 2 cột trốn. Nền nhà lát gạch. Chức năng của tòa ngoài là để trưng bày và trải nghiệm giá trị vật thể và phi vật thể của Mộc bản. Hành lang trước và sau để tạo bóng râm trên vách và nền nhà;
+ Tòa giữa, kết nối giữa tòa ngoài và trong, không gian trống - nơi thư giãn và giao thông. Kiến trúc 1 tầng mái, bốn mái, bốn đao;
+ Tòa trong - chức năng nhà kho để lưu giữ Mộc bản và in ấn của nhà chùa. Kiến trúc gồm 3 gian hai chái, hai tầng mái, tám mái, tám đao, cổ diềm bao quanh; thiết kế hành lang có mái che xung quanh. Nền hành lang lát gạch, nền nhà kho bằng đất sét trộn đất mối xông, vôi, gạch vỡ nhỏ; Tường, dưới xây gạch dày, trên tường đất nện. Trong nhà kho, bố trí kệ gỗ chứa mộc bản xung quanh tường, ở giữa là không gian in ấn của nhà chùa.
4.5. Mô hình kiến trúc nhà kho bảo quản mộc bản chùa Bổ Đà có phương án thiết kế hình chữ hình chữ NHỊ, gồm:
+ Tòa tiền là không gian trưng bày và trải nghiệm với không gian nửa kín nửa hở, có thiết kế kiến trúc một tầng mái, tạo khu vực chuyển tiếp giữa trong nhà và ngoài sân để du khách có thể sử dụng hem không gian sân chùa.
+ Tòa hậu là nhà kho bảo quản mộc bản với chức năng lưu giữ mộc bản nguyên gốc và không gian nghiên cứu, in ấn của nhà chùa; có thiết kế kiến trúc 2 tầng mái truyền thống. Khu vực cổ diêm sẽ là nơi thông gió theo chiều đứng, thiết kế hành lang xung quanh; Nền nhà kho bằng đất sét trộn đất mối xông, vôi, gạch vỡ nhỏ, tường, dưới xây gạch dày, trên tường đất nện.
5. Đã đề xuất được phương án thiết kế và thi công nhà kho lưu giữ mộc bản tại chùa Vĩnh Nghiêm và chùa Bổ Đà
5.1. Đã đề xuất các kiến nghị thay đổi thiết kế và vật liệu xây dựng của phương án xây nhà kho hiện nay chùa Vĩnh Nghiêm đang tiến hành xây dựng để tạo môi trường phù hợp hơn với mục đích sử dụng bảo quản mộc bản.
5.2. Nhà kho lưu giữ mộc Chùa Bổ đà có tổng diện tích xây dựng để đảm bảo công năng bảo quản, trưng bày, trải nghiệm là 322m2. Trong đó, phòng kho lưu giữ và in ấn có diện tích là 87,5m2. Nhà trưng bày, trải nghiệm có diện tích là 117,5m2. Hai nhà được nối nhau bằng ống muống, có dãy hành lang giúp đi lại dễ dàng và đảm bảo sự an toàn cho các mộc bản.
6. Đề tài đã đề xuất Quy chế bảo quản mộc bản và tổ chức 02 lớp tập huấn, giới thiệu và hướng dẫn kỹ thuật bảo quản tại hai chùa.
Có thể tìm đọc toàn văn báo cáo kết quả nghiên cứu (Mã số 14275/2017) tại Cục Thông tin khoa học và công nghệ quốc gia.
P.K.L (NASATI)