Xây dựng hạ tầng chất lượng quốc gia để tăng cường năng lực cạnh tranh
Cập nhật vào: Thứ ba - 23/07/2024 00:04
Cỡ chữ
Các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới đang đòi hỏi sự thay đổi trong công tác quản lý chất lượng sản phẩm, bao gồm việc phát triển hạ tầng chất lượng quốc gia (NQI). NQI, một thuật ngữ tương đối mới, là hệ thống cơ chế pháp lý và kỹ thuật nhằm triển khai các hoạt động tiêu chuẩn, đo lường, đánh giá sự phù hợp và công nhận chất lượng ở mỗi quốc gia. Điều này không chỉ đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong nước mà còn tăng cường sự thừa nhận của quốc tế, hỗ trợ doanh nghiệp tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu.
Dây chuyền sản xuất của nhà máy sữa TH true MILK tại Nghệ An
Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên Hợp Quốc (UNIDO) cho rằng GQII là chỉ số tổng hợp đo lường các khía cạnh khác nhau của các lĩnh vực: Tiêu chuẩn hóa, đo lường, công nhận và chứng nhận sự phù hợp. Đây là công cụ để so sánh mức độ phát triển hạ tầng chất lượng của các quốc gia.
TS. Hà Minh Hiệp, Quyền Chủ tịch Ủy ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Quốc gia (Bộ KH&CN), nhấn mạnh rằng Việt Nam tham gia 16 hiệp định thương mại tự do thế hệ mới vừa là cơ hội, vừa là thách thức. Ông cho rằng việc quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa cần có một cách tiếp cận toàn diện hơn về NQI, không chỉ dựa vào tiêu chuẩn mà còn phải đảm bảo hoạt động đánh giá sự phù hợp.
1. Đánh giá sự phù hợp: Các hoạt động thử nghiệm, giám định, chứng nhận phải đảm bảo đáp ứng tiêu chuẩn. Nếu không đảm bảo hoạt động đánh giá sự phù hợp thì không thể thử nghiệm được.
2. Đo lường: Toàn bộ hệ thống sản xuất và thiết bị thử nghiệm phải được dẫn xuất chuẩn đo lường để đảm bảo tính thống nhất.
3. Thể chế chính sách: Cần có chính sách đi kèm để đảm bảo hoạt động và sự kết nối thống nhất của NQI.
Mặc dù nhiều sản phẩm và dịch vụ ở các nước đang phát triển có chất lượng cao, nhưng nếu NQI không hoạt động hiệu quả và tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế, thì việc "tiếp thị" sản phẩm và dịch vụ ra quốc tế sẽ gặp khó khăn. Việc xây dựng và phát triển NQI được coi là nhiệm vụ của các cơ quan Chính phủ và là công cụ hữu hiệu để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Việt Nam đã hình thành NQI trên nền tảng các quy định tại Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật, Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa và Luật Đo lường. Tuy nhiên, khái niệm NQI và các nguyên tắc, biện pháp để tổ chức thực hiện nhằm nâng cao chỉ số NQI của Việt Nam trong đánh giá, xếp hạng GQII vẫn chưa được quy định rõ.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa đã thiết kế nhóm chính sách liên quan đến xây dựng và hình thành nền tảng về NQI, hướng tới phát triển bền vững, giúp cho doanh nghiệp, người dân, Chính phủ nhìn nhận chất lượng sản phẩm hàng hóa trên góc độ tổng thể để hướng tới xuất khẩu.
Bộ KH&CN đã trình Chính phủ đề án về "Phát triển hạ tầng chất lượng quốc gia giai đoạn đến năm 2030, định hướng đến năm 2035" với mục tiêu NQI của Việt Nam phát triển ngang tầm với các nước tiên tiến trên thế giới, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế.
Việt Nam hiện đang ở vị trí thứ 51 trong bảng xếp hạng GQII toàn cầu năm 2021, mục tiêu là đạt vị trí 45 vào năm 2030 và vị trí 40 vào năm 2035. Để đạt được mục tiêu này, Việt Nam cần có giải pháp đẩy mạnh phát triển NQI, cải thiện các chỉ số liên quan về tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng, đánh giá sự phù hợp và công nhận. Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, Việt Nam cần ứng dụng công nghệ như AI và Blockchain trong các hoạt động đo lường và công nhận.
Đ.T.V (tổng hợp)