Nghiên cứu chọn tạo giông cây có củ (khoai tây, khoai lang và sắn) cho các tỉnh đồng bằng sông Hồng và trung du miền núi phía Bắc giai đoạn 2011-2015
Cập nhật vào: Thứ hai - 09/09/2019 08:08
Cỡ chữ
Khoai tây, khoai lang và sắn là ba cây chủ lực trong nhóm các cây có củ có vai trò quan trọng trong việc góp phần đảm bảo an ninh lương thực, thực phẩm cho người và thúc đẩy phát triển chăn nuôi, công nghiệp chế biến. Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) và các tỉnh trung du - miền núi (TD-MN) phía Bắc hiện là hai vùng sinh thái chủ lực sản xuất khoai tây, khoai lang và sắn ở nước ta.
Trong giai đoạn 2011-2015, mỗi năm các tỉnh ĐBSH và TD-MN phía Bắc trồng 54.700 - 65.900 ha khoai lang, tương đương 42,1 - 43,7% diện tích khoai lang cả nước. Năng suất khoai lang trung bình năm 2014 tại vùng ĐBSH đạt 9,57 tấn/ha, vùng TD-MN phía Bắc chỉ đạt 6,7 tấn/ha, so với trung bình cả nước là 10,8 tấn/ha và thấp hơn nhiều năng suất trung bình toàn thế giới 13,44 tấn/ha. Sản xuất khoai lang ở ĐBSH và vùng TD-MN phía Bắc hiện đang cần được bổ sung các giống khoai lang năng suất cao với chất lượng củ trung bình để làm thức ăn gia súc; đồng thời cần có các giống cho năng suất khá nhưng chất lượng củ cao để đáp ứng nhu cầu ăn tươi đang ngày càng tăng của người tiêu dùng.
Nhằm góp phần khắc phục khó khăn và tiếp tục thúc đẩy sản xuất khoai tây, khoai lang và sắn ở các tỉnh ĐBSH và TD-MN phía Bắc, trong giai đoạn 2011-2015, Viện Cây lương thực và Cây thực phẩm đã thực hiện đề tài “Nghiên cứu chọn tạo giống cây có củ (khoai tây, khoai lang, sắn) cho các tỉnh đồng bằng sông Hồng và Trung du - miền núi phía Bắc”. Chủ nhiệm đề tài là TS. Ngô Doãn Đảm.
Đề tài thu được những kết quả sau:
1. Về nghiên cứu chọn tạo vật liệu khởi đầu đối với khoai tây, khoai lang và sắn :
- Đã thu thập bổ sung được 595 mẫu giống khoai tây, khoai lang và sắn (gồm 307 mẫu giống khoai tây; 111 mẫu giống khoai lang và 177 mẫu giống sắn).
- Đã duy trì 37.379 lượt mẫu giống khoai tây, khoai lang và sắn gồm (20.268 lượt mẫu giống khoai tây, 16.367 lượt mẫu giống khoai lang; 774 lượt mẫu giống sắn).
- Đã lai tạo được 329 tổ hợp lai khoai tây, khoai lang và sắn (gồm 30 THL khoai tây; 222 THL khoai lang và 77 THL sắn). Các dòng giống được thu thập bổ sung và lai tạo mới đã được sử dụng trong công tác chọn tạo giống mới.
2. Về nghiên cứu chọn lọc các dòng giống khoai tây, khoai lang và sắn mới:
- Đã đánh giá, chọn lọc 68.932 lượt dòng giống khoai tây, khoai lang và sắn ở các thế hệ khác nhau. Trong đó gồm 22.786 lượt dòng giống khoai tây; 45.097 lượt dòng giống khoai lang và 1.049 lượt dòng giống sắn.
- Chọn được 93 dòng giống khoai tây, khoai lang và sắn ưu tú. Trong đó có 28 dòng giống khoai tây; 45 dòng khoai lang và 20 dòng giống sắn.
- So sánh chính qui 56 dòng giống khoai tây, khoai lang và sắn năng suất cao và chất lượng tốt. Trong đó, đã chọn được 7 dòng giống khoai tây có triển vọng đạt năng suất cao 21,3 - 25,64 tấn/ha, hàm lượng chất khô củ đạt từ 18,3 - 21,8%; 6 dòng giống khoai lang có triển vọng đạt năng suất củ cao và khá cao từ 17,6 - 24,63 tấn/ha và chọn được 5 dòng giống có triển vọng nhất, đạt năng suất củ trung bình từ 36,4-51,2 tấn/ha.
3. Về nghiên cứu xây dựng quy trình kỹ thuật canh tác cho các dòng giống mới
Kế thừa các kết quả nghiên cứu khoa học của giai đoạn trước, đề tài đã xây dựng được 7 qui trình kỹ thuật canh tác cho 7 giống khoai tây, khoai lang và sắn mới được công nhận. Các quy trình kỹ thuật canh tác này đã được hội đồng KHCN nghiệm thu cấp cơ sở gồm: 3 quy trình kỹ thuật canh tác cho 3 giống khoai tây Aladin, Sirona và KT1; 2 quy trình kỹ thuật canh tác cho 2 giống khoai lang KT15T và KLC3 và 2 quy trình kỹ thuật canh tác cho 2 giống sắn Sa21-12 và BK.
4. Về khảo nghiệm sinh thái các dòng giống khoai tây, khoai lang và sắn mới:
- Khảo nghiệm sinh thái 17 giống khoai tây tại 5 tỉnh ĐBSH (gồm Hà Nội, Thái Bình, Bắc Ninh, Hải Dương và Hải Phòng) đã chọn lọc được 6 giống khoai tây khảo nghiệm có triển vọng đạt năng suất cao. Đã khảo nghiệm sinh thái 25 dòng giống khoai lang tại 9 tỉnh phía Bắc, chọn được 4 dòng giống khảo nghiệm có triển vọng cho năng suất cao nhất. Đã khảo nghiệm sinh thái 8 dòng giống sắn tại 3 tỉnh phía Bắc, chọn được 4 dòng giống khảo nghiệm có triển vọng năng suất củ tươi cao nhất.
5. Về xây dựng mô hình thử nghiệm sản xuất các dòng giống mới:
Trong giai đoạn tham gia thực hiện đề tài từ năm 2011-2015, đã xây dựng được 9 mô hình thử nghiệm sản xuất cho các dòng, giống khoai tây, khoai lang và sắn mới có triển vọng với quy mô từ 3-5 ha/mô hình bao gồm: (4 mô hình thử nghiệm sản xuất khoai tây Sinora; Aladin; KT1 và dòng VC9); (3 mô hình thử nghiệm sản xuất khoai lang mới KLC3, KL15T và VC424); (2 mô hình trình diễn thử nghiệm sản xuất sắn Sa21-12 và giống săn BK) vượt so với kế hoạch.
Đề tài góp phần thúc đẩy nghiên cứu tổng hợp từ sản xuất đến chế biến và thị trường tiêu thụ khoai tây, khoai lang và sắn. Các tỉnh phía Bắc, nông dân đã có truyền thống trồng cây khoai tây, khoai lang và sắn. Việc áp dụng các tiến bộ mới về giống và biện pháp kỹ thuật bước đầu phát huy được hiệu quả trong việc tăng năng suất và hiệu quả kinh tế.
Có thể tìm đọc toàn văn Báo cáo kết quả nghiên cứu của Đề tài (Mã số 13586/2017) tại Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia.
N.P.D (NASATI)
khoai tây, khoai lang, chủ lực, vai trò, quan trọng, góp phần, đảm bảo, an ninh, lương thực, thực phẩm, thúc đẩy, phát triển, chăn nuôi, công nghiệp, chế biến, trung du, sản xuất