Liệu pháp gen có thể cải thiện thị lực ở trẻ nhỏ mắc chứng loạn dưỡng võng mạc nghiêm trọng liên quan đến AIPL1
Cập nhật vào: Thứ tư - 04/06/2025 13:08
Cỡ chữ
Các nhà nghiên cứu từ Trung tâm nghiên cứu y sinh học NIHR Moorfields và Đại học University College London đã phát hiện rằng liệu pháp gen có thể cải thiện thị lực và bảo tồn cấu trúc võng mạc ở trẻ nhỏ mắc chứng loạn dưỡng võng mạc nghiêm trọng liên quan đến AIPL1. Đây là thử nghiệm đầu tiên trên người về việc bổ sung gen nhắm vào tình trạng này, đánh dấu một bước tiến quan trọng trong điều trị các bệnh lý võng mạc di truyền.
Loạn dưỡng võng mạc do các biến thể lưỡng alen trong gen AIPL1 gây ra là một tình trạng nghiêm trọng dẫn đến suy giảm thị lực ngay từ khi sinh ra, với tình trạng thoái hóa tiến triển và các lựa chọn điều trị hiện tại còn hạn chế. Các nghiên cứu trước đây về chứng loạn dưỡng tế bào que-nón khởi phát sớm, bao gồm các dạng liên quan đến gen AIPL1, đã chỉ ra rằng thời điểm can thiệp sớm trong giai đoạn trẻ thơ là rất quan trọng. Lúc này, một số cấu trúc thụ thể ánh sáng vẫn còn nguyên vẹn và có thể phục hồi. Mô hình chuột thiếu Aipl1 và các nghiên cứu trên võng mạc của con người đã chứng minh rằng liệu pháp gen có thể giúp phục hồi một phần chức năng của các thụ thể ánh sáng.
Trong một nghiên cứu được công bố trên tạp chí The Lancet, các nhà nghiên cứu đã thực hiện một thử nghiệm lâm sàng nhằm đánh giá tính an toàn và hiệu quả của liệu pháp bổ sung gen trong việc cải thiện chức năng thị giác và bảo tồn cấu trúc võng mạc. Cụ thể, họ đã tiêm một vectơ virus liên kết với adeno tái tổ hợp (rAAV8. hRKp. AIPL1) mang gen AIPL1 vào một mắt của mỗi trẻ tham gia nghiên cứu. Liệu pháp này nhằm mục đích điều trị các bệnh lý võng mạc di truyền, mà trong đó thiếu gen AIPL1 có thể dẫn đến suy giảm thị lực.
Bốn trẻ em từ 1,0 đến 2,8 tuổi có đột biến AIPL1 đã được xác nhận, được tiêm liệu pháp gen dưới võng mạc bằng vectơ rAAV8. hRKp. AIPL1 vào một mắt. Vectơ này, sản xuất theo sự chấp thuận của cơ quan quản lý Vương quốc Anh, cung cấp trình tự mã hóa AIPL1 thông qua chất xúc tiến kinase rhodopsin ở người. Prednisolone đường uống được sử dụng trong giai đoạn quanh phẫu thuật để giảm viêm. Trong suốt thời gian theo dõi trung bình là 3,5 năm, các bệnh nhân được đánh giá qua nhiều yếu tố như độ nhạy thị giác, thị lực chức năng, cấu trúc võng mạc và phản ứng vỏ não.
Trước khi điều trị, tất cả các trẻ em đều có thị lực giới hạn, chỉ ở khả năng nhận biết ánh sáng. Tuy nhiên, sau quá trình điều trị, kết quả theo dõi cuối cùng cho thấy mắt được điều trị đã cải thiện rõ rệt, với thị lực trung bình đạt 0,9 logMAR (trong phạm vi từ 0,8 đến 1,0), so với mức ban đầu là 2,7 logMAR. Ngược lại, mắt không được điều trị không có sự cải thiện nào về thị lực và thậm chí đã giảm xuống mức không thể đo được, hoặc mất khả năng nhận biết ánh sáng vào lần theo dõi cuối cùng.
Kết quả kiểm tra khách quan đối với hai trẻ lớn hơn bằng các phương pháp xét nghiệm màn hình cảm ứng PopCSF và điện thế kích thích thị giác trạng thái ổn định (ssVEP) đã chỉ ra sự cải thiện đáng kể về chức năng thị giác cũng như phản ứng vỏ não đặc trưng cho mắt được điều trị. Hình ảnh võng mạc cho thấy sự bảo tồn tốt hơn về độ dày và độ phân lớp của võng mạc ở ba mắt được điều trị so với những mắt không được điều trị.
Như vậy, liệu pháp gen với rAAV8. hRKp. AIPL1 giúp cải thiện thị lực lâu dài, không gây ra tác dụng phụ nghiêm trọng, hỗ trợ điều trị can thiệp sớm chứng loạn dưỡng võng mạc liên quan đến AIPL1.
P.T.T (NASATI), theo https://Medicalxpress.com/, 6/2025