Những đổi mới trong chăm sóc sức khỏe tim mạch và điều trị đột quỵ
Cập nhật vào: Thứ sáu - 06/12/2024 00:02 Cỡ chữ
Chiều 5/12/2024, tọa đàm "Những đổi mới trong chăm sóc sức khỏe tim mạch và điều trị đột quỵ" đã diễn ra tại Hà Nội, thu hút sự tham gia của các chuyên gia y tế đến từ Australia, New Zealand và Việt Nam. Đây là sự kiện trong chuỗi Tọa đàm "Khoa học vì Cuộc sống" trong Tuần lễ Khoa học Công nghệ VinFuture 2024. Các nhà khoa học và bác sĩ đã cùng nhau thảo luận về những giải pháp mới nhằm phòng ngừa và điều trị hai nguyên nhân tử vong hàng đầu thế giới: bệnh tim mạch và đột quỵ.
Các chuyên gia chia sẻ tại tọa đàm
GS. Alta Schutte, chuyên gia đến từ Đại học New South Wales (Australia) và là thành viên Hội đồng Sơ khảo VinFuture, đã chia sẻ rằng huyết áp cao là yếu tố gốc rễ trong việc phòng ngừa đột quỵ. Theo thống kê, hơn 70% ca đột quỵ có liên quan đến huyết áp cao, nhưng chỉ có khoảng 23% phụ nữ và 18% nam giới trên thế giới kiểm soát huyết áp một cách hiệu quả. Điều này đặc biệt đáng lo ngại đối với các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình, trong đó có Việt Nam. Bà Schutte cũng chỉ ra rằng, việc điều trị chậm trễ hoặc không tuân thủ phác đồ điều trị là một thách thức lớn, do thiếu nhận thức của bệnh nhân, quy trình đo huyết áp không chính xác và phác đồ điều trị phức tạp. Để giải quyết vấn đề này, bà đề xuất các giải pháp sáng tạo như cải tiến thiết bị đo huyết áp và phát triển các phương pháp điều trị tiện lợi hơn.
Về phương pháp điều trị, GS. Schutte cho biết, các nhà khoa học gần đây đã phát triển một số công nghệ ấn tượng trong việc điều trị huyết áp cao và phòng ngừa đột quỵ. Một trong những sáng kiến nổi bật là việc sử dụng thuốc phối hợp liều thấp, kết hợp nhiều loại thuốc trong một viên, giúp cải thiện tính tiện lợi và tăng hiệu quả điều trị. Bên cạnh đó, một loại thuốc tiêm giúp hạ huyết áp cũng đang được thử nghiệm và có khả năng được áp dụng trong thực tế. Loại thuốc này có tác dụng trong 6 tháng, giúp bệnh nhân không phải mua thuốc thường xuyên và bác sĩ không cần theo dõi bệnh nhân về việc sử dụng thuốc.
Ngoài ra, GS. Schutte cũng nhấn mạnh vai trò quan trọng của công nghệ tiên tiến như trí tuệ nhân tạo (AI) trong việc phòng ngừa và điều trị đột quỵ. AI có thể giúp tăng cường nhận thức của cộng đồng về nguy cơ mắc đột quỵ, cũng như cải thiện khả năng tiếp cận thông tin và chăm sóc sức khỏe cho tất cả mọi người, bao gồm cả những người có thu nhập thấp. Bà cũng giới thiệu phương pháp thay thế muối ăn bằng việc thay thế 26% natri trong muối bằng kali, giúp giảm nguy cơ tim mạch và tử vong, đặc biệt hiệu quả đối với bệnh nhân trên 60 tuổi có tiền sử đột quỵ.
Tại tọa đàm, GS. Valery Feigin, Đại học Công nghệ Auckland (New Zealand), cũng chia sẻ về phần mềm Stroke Riskometer, một công cụ giúp người dùng đánh giá nguy cơ đột quỵ của mình dựa trên các yếu tố như huyết áp, hành vi và môi trường sống. Thử nghiệm lâm sàng tại New Zealand cho thấy, sau 6-9 tháng sử dụng công cụ này và thay đổi lối sống, tỷ lệ mắc mới đột quỵ giảm từ 40%-50% trong cộng đồng.
Nam giới đột quỵ nhiều gấp 4 lần nữ
Mỗi năm, Việt Nam ghi nhận hơn 200.000 ca đột quỵ, với tỷ lệ nam mắc bệnh cao gấp 4 lần nữ. Khoảng 40% trong số đó tử vong, tạo ra gánh nặng y tế và xã hội nghiêm trọng, đặc biệt khi chi phí điều trị rất cao. Các chuyên gia y tế cho rằng Việt Nam đang đối mặt với ba vấn đề lớn liên quan đến đột quỵ: tỷ lệ mắc bệnh cao, tỷ lệ tử vong cao tương đương số ca mắc và bệnh đang ngày càng trẻ hóa.
PGS Nguyễn Duy Tôn, Giám đốc Trung tâm Đột quỵ, Bệnh viện Bạch Mai, cho biết tại Tọa đàm rằng số ca đột quỵ đang tăng lên qua các năm. Năm 2023, trung tâm này đã tiếp nhận 13.228 bệnh nhân, tăng hơn 2.000 ca so với năm trước đó, trong đó khoảng 8% là người trẻ. Trung bình mỗi ngày, trung tâm tiếp nhận 50-55 bệnh nhân, có ngày cao điểm lên đến 60 bệnh nhân. Để đáp ứng nhu cầu, Bệnh viện Bạch Mai đã phải mở rộng giường điều trị đột quỵ.
Theo Bộ Y tế, tỷ lệ đột quỵ ở Việt Nam khá cao, với 40% bệnh nhân tử vong. Đáng chú ý, tỷ lệ người trẻ mắc đột quỵ ngày càng tăng, chiếm khoảng 30% tổng số ca. Trong khi đó, tỷ lệ mắc đột quỵ ở người trẻ tuổi tại các bệnh viện cũng tăng khoảng 2% mỗi năm, với nam giới chiếm đa số. Các chuyên gia cũng cho biết, đột quỵ là nguyên nhân gây tử vong đứng thứ hai và tàn phế đứng thứ ba trên toàn cầu. Trong 30 năm qua, số người tử vong hoặc tàn phế do đột quỵ đã tăng 89%, và trong 10 năm gần đây, tỷ lệ mắc mới và hiện mắc đột quỵ gia tăng, đặc biệt là ở các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình, bao gồm Việt Nam.
Các yếu tố nguy cơ gây đột quỵ ngày càng đa dạng, trong đó 60% ca bệnh có liên quan đến huyết áp cao, 20% do ô nhiễm không khí và phần còn lại do các thói quen sinh hoạt xấu như chế độ ăn không lành mạnh, hút thuốc. Huyết áp cao là yếu tố quan trọng cần kiểm soát để phòng ngừa đột quỵ. Tuy nhiên, hiện nay chỉ có khoảng 23% phụ nữ và 18% nam giới kiểm soát được huyết áp của mình, trong khi các quốc gia phát triển cũng chỉ đạt tỷ lệ kiểm soát huyết áp ở mức 64%.
Đột quỵ não có hai dạng chính: nhồi máu não và xuất huyết não. Hầu hết các trường hợp đột quỵ liên quan đến các yếu tố nguy cơ như tăng huyết áp, bệnh tim mạch, rối loạn chuyển hóa và lối sống không lành mạnh. Ngoài ra, đột quỵ cũng có thể do dị dạng mạch máu não bẩm sinh, gây ra vỡ mạch máu khi các phình mạch đủ lớn. Việc điều trị đột quỵ cần phải được thực hiện nhanh chóng, đặc biệt là trong 4-5 giờ đầu, thông qua các phương pháp như tiêu huyết khối.
Tại tọa đàm, các chuyên gia nhấn mạnh sự cần thiết phải có các chiến lược phòng ngừa và điều trị đột quỵ hiệu quả hơn. PGS Tôn đề xuất Bộ Y tế xây dựng chương trình quốc gia phòng chống và quản lý bệnh đột quỵ, với mục tiêu giảm tỷ lệ mắc mới, tỷ lệ tử vong và tỷ lệ tàn phế trong vòng 5 năm tới. Các chuyên gia cũng khuyến nghị việc thay đổi lối sống, kiểm soát huyết áp và các thói quen sinh hoạt có thể giúp giảm tỷ lệ mắc bệnh, góp phần giảm bớt gánh nặng cho hệ thống y tế và xã hội.
P.A.T (tổng hợp)