AI trong y tế sẽ tăng tốc sau đại dịch
Cập nhật vào: Thứ năm - 04/06/2020 03:54 Cỡ chữ
Đó là nhận định của các diễn giả đến từ Việt Nam, Úc, Nhật Bản... tại webinar “Vai trò của khoa học công nghệ và trí tuệ nhân tạo trong COVID-19”.
Ảnh chụp màn hình các diễn giả tham dự hội thảo ngày 30/5/2020 | Nguồn: VANJ
Trưa 30/5, theo giờ Việt Nam, Mạng lưới học thuật người Việt Nam tại Nhật Bản (VANJ) đã tổ chức hội thảo online (webinar) với chủ đề “Vai trò của khoa học công nghệ và trí tuệ nhân tạo trong COVID-19”, thu hút được gần 200 người Việt Nam từ nhiều quốc gia và châu lục khác nhau tham dự. Video hội thảo có thể truy cập lại trên fanpage của VANJ.
3 diễn giả chính của chương trình gồm: GS Hồ Tú Bảo (Viện nghiên cứu Cao cấp về Toán VIASM và Viện John von Neumann, Đại học quốc gia TPHCM), PGS.TS Trần Thế Truyền (Viện AI Ứng dụng, Đại học Deakin, Úc) và ông Trần Ngọc Phúc (Chủ tịch Công ty Metran, Nhật Bản, Giám đốc điều hành công ty MAGOS, Chủ tịch Hội Người Việt Nam tại Nhật Bản).
AI chưa kịp phát huy hết vai trò trong dịch Covid-19
Các diễn giả đã chia sẻ nhiều ứng dụng khoa học công nghệ trong việc ứng phó với dịch bệnh, bao gồm hệ thống máy thở/máy trợ thở phiên bản thu gọn mà công ty Metran đang nghiên cứu phát triển cho Việt Nam; các ứng dụng của AI trong lĩnh vực Y sinh mà thế giới đang theo đuổi để chuẩn bị ứng phó với những nguy cơ y tế trong tương lai; cũng như sự tăng tốc trong quá trình chuyển đổi số ở Việt Nam để thích ứng với trạng thái “bình thường mới” sau đại dịch.
Hiện nay, mặc dù Việt Nam đã trải qua 43 ngày không có ca lây nhiễm mới trong cộng đồng và Nhật Bản đã dần gỡ bỏ tình trạng khẩn cấp, nhưng số ca tử vong do COVID-19 được báo cáo tại Mỹ vừa vượt quá con số 100.000 và tình trạng tại một số nước như Brazil, Ấn Độ đang xấu đi nhanh chóng. Nhu cầu y tế cấp thiết nhưng bất đối xứng ở nhiều khu vực trên thế giới đòi hỏi quá trình nghiên cứu khoa học-công nghệ phải tăng tốc chưa từng có.
Trong bối cảnh đó, trí tuệ nhân tạo (AI) là một hướng đi được kì vọng sẽ đem lại những kết quả “thần kì” bởi chúng có khả năng tăng tốc những phát kiến khoa học về virus, thuốc điều trị và vaccine, dự báo để lập kế hoạch, cảnh báo ổ dịch, cung cấp, sàng lọc thông tin… Trên thực tế, một nhóm nghiên cứu ở Trung Quốc đã ứng dụng AI đọc phim CT để chẩn đoán bệnh nhân COVID-19 và đạt độ chính xác như các chuyên gia chẩn đoán hình ảnh giàu kinh nghiệm.
Tuy vậy, “AI vẫn đóng vai trò hạn chế trong đại dịch Covid-19 thời gian qua”, PGS Trần Thế Truyền nhận định. Về mặt kỹ thuật có thể kể đến lý do thiếu các dữ liệu tiền lệ để huấn luyện phần mềm máy tính. Thêm vào đó, nhiều quốc gia phản ứng chậm chạp với các sự cố y tế lớn bởi hệ thống y tế cồng kềnh, nhiều quán tính và bảo thủ. Trong khi đó, để chuyển đổi sang xây dựng một hệ thống sử dụng AI từ đầu, đòi hỏi sự tốn kém cả về thời gian, công sức và tiền bạc. Do vậy, rất nhiều nghiên cứu về AI từng được các nước phát triển nhưng dưới quan điểm đi từng bước, là một hành trình dài. Và khi đại dịch xảy ra, chúng chỉ “sẵn sàng tham gia vào một số bộ phận và công đoạn rời rạc,” PGS Trần Thế Truyền chia sẻ.
Sẵn sàng với những dữ liệu đã có
Tuy nhiên, nhiều nhà khoa học dự đoán rằng "AI trong y tế sẽ tăng tốc sau đại dịch". Lĩnh vực này sẽ ngày càng được ưu tiên đầu tư bởi nó mở ra tiềm năng ứng dụng to lớn gắn với đời sống con người.
AI sẽ thay đổi theo xu hướng nào? PGS Trần Thế Truyền cho rằng chúng sẽ có mục tiêu hợp lý hơn, chẳng hạn cân bằng giữa tầm quan trọng và tính khẩn cấp. Người ta cũng sẽ phải phát triển các loại AI mới không cần hoặc cần rất ít số liệu quá khứ. AI sẽ cần tích hợp theo hướng tương tác tốt hơn với con người, đảm bảo quyền riêng tư, công bằng và trách nhiệm với con người. Bên cạnh đó, trong tương lai xa hơn (5-20 năm), các nhà nghiên cứu đang cố gắng triển khai những loại AI có khả năng tự ý thức về hạn chế của mình và có chung hệ giá trị với con người.
Đề cập dữ liệu cho AI, GS Hồ Tú Bảo cũng chia sẻ những thay đổi trong tiến trình chuyển đổi số ở Việt Nam. Ông cho biết, từ vài năm nay, chính phủ Việt Nam đã bắt đầu xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về hồ sơ sức khỏe để kết nối toàn bộ dữ liệu điện tử về sức khỏe của một người trong suốt vòng đời, bao gồm 4 cấu phần là: thông tin cơ bản, thuốc, lâm sàng và cận lâm sàng.
Khung hồ sơ đã được xây dựng và triển khai đến 63 tỉnh thành để thu thập dữ liệu, đồng thời các hồ sơ sức khỏe điện tử đang được thí điểm tại 8 tỉnh (Hà Nội, TPHCM, Lào Cai, Yên Bái, Hà Tĩnh, Khánh Hòa, Lâm Đồng và Long An). Mục tiêu đến năm 2025 có 95% người dân trên toàn quốc có hồ sơ sức khỏe điện tử, cập nhật thông tin sức khỏe thường xuyên và được kết nối với tất cả các cơ sở khám chữa bệnh trên cả nước.
“Nếu chương trình này hoàn thành, sẽ có một lượng dữ liệu khổng lồ để phân tích và sẽ cần dùng đến AI. Hiện nay dữ liệu ở 2 mục thông tin cơ bản và thuốc đã tương đối khả quan, và là nguồn tài nguyên dồi dào cho nghiên cứu. Thông tin lâm sàng và cận lâm sàng sẽ cần thời gian dài nữa mới có thể hoàn thiện. Tuy vậy, chúng ta cần sẵn sàng với những dữ liệu đã có, bởi nó cũng đã có thể cho ra rất nhiều thông tin hữu ích. Chuyển đổi số là quá trình lâu dài, mà chúng ta cần đi từ việc nhỏ đến việc lớn”, GS Hồ Tú Bảo nhấn mạnh.
Cũng trong hội thảo của VANJ, ông Trần Ngọc Phúc, Chủ tịch Công ty Metran, nơi có nhiều sản phẩm phục vụ cho cả chăm sóc chuyên sâu tại bệnh viện (critical care) và tại nhà (home care) cho cả người và động vật, chia sẻ, máy thở ComposX mà Metran đang sản xuất cho Việt Nam là một phiên bản tối giản của hệ thống máy thở trong ICU thông thường, đảm bảo bất kì ai và ở đâu cũng có thể dùng được. Ông Phúc cho biết, máy hoạt động tự động, sử dụng khí nén tinh khiết thay vì không khí thông thường, tích hợp bộ cấp nhiệt và ẩm (HME) vào hệ thống hút kín, bảo vệ an toàn cho nhân viên y tế. Ông cho biết các nghiên cứu chế tạo máy thở cho Việt Nam cũng nằm trong gói tài trợ của Chính phủ Nhật cho Metran giai đoạn 2017-2020.
Theo Báo KH&PT